Thứ Ba, 2 tháng 4, 2013

trần thị cổ tích


khúc tưởng niệm


Đêm Cẩm Viên
Đêm cà phê
Đêm Quảng Ngãi
Những mắt nến rưng rưng nhỏ lệ khóc người
Bao năm rồi
Bao giòng sông vẫn chảy
mà tiếng đàn xưa …
lặng lẽ nơi nao

Trịnh Công Sơn
- “một chàng phiêu lãng-
ôm đàn tới giữa đời”* tấu khúc thi ca
ngàn năm cuốn trôi thăng trầm vinh nhục
lấp lánh giữa tim người
vẫn ca-khúc-trịnh-công-sơn

*Lời nhạc “Tà áo Văn Quân” (Phạm Duy Nhượng)

gửi người đồng điệu

Hát đi anh
Những tình khúc buồn
Hát lên em
Ngàn lời yêu thương
Nâng ly cà phê nhắp từng giọt đắng
Nâng ly cam vắt ngấm từng giọt thơm
Bao đắng cay ngọt ngào làm nên cuộc sống
Người cầm tay người mở lối yêu thương
Đi qua cuộc đời lừng vang tiếng hát
Về với đất trời tự tại phiêu nhiên

Cà phê Cẩm Viên bên nhau ta ngồi
Thao thức nhớ người bên trời lãng bạt
Gửi lại cho đời chút tình độ lượng
Độ lượng người
Độ lượng ta

MỘT tháng TƯ đêm nay
Tình ca Trịnh Công Sơn xoay tròn cõi nhớ
Tươi xanh trên những cánh đồng
Ngát hương trên từng nẻo phố
Muộn phiền và hân hoan
An ủi trái tim người
   
           

Thứ Hai, 1 tháng 4, 2013

từ thức [trần công sung] - trịnh công sơn & những ngày văn khoa



[Gởi những người bạn Sài Gòn ngày xưa]

Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
[Vũ Đình Liên]


Một ngày đầu tháng tư (2001), tôi lên phi trường Charles de Gaulle đón một người bạn từ Việt Nam qua. Trên xe về Paris, anh ta hỏi: Cậu có nghe tin về Trịnh Công Sơn (TCS)? Tôi gật đầu. Mấy hôm trước, có người gọi dây nói cho hay TCS vừa từ trần. 
Anh bạn nói đám tang Sơn rất đông. Người ta ở đâu đổ về như kiến, chật cả đường phố. Quen có, lạ có. Không đủ chỗ đặt vòng hoa phúng điếu. Tôi nói với ông bạn: Như vậy, cái xứ của ông vẫn còn văn minh, vẫn còn thuốc chữa.
Đó là cái tin lạc quan nhất về Việt Nam mà tôi được nghe từ nhiều năm nay. Dostoievski[1] nói: Cái đẹp sẽ cứu vãn nhân loại[2]. Bỏ công ăn việc làm, đến tiễn đưa một thi sĩ – TCS là một nhạc sĩ – thi sĩ – chứng tỏ người ta còn nghĩ đến cái đẹp, người ta còn có tâm hồn.
Tự nhiên tôi nghĩ đến “Bác sĩ Jivago” của Boris Pasternak. Cũng như Sơn, Jivago là một thi sĩ. Cũng như Sơn, Jivago bị cuốn hút trong cơn lốc của lịch sử, bị quẳng vào một bi kịch kinh thiên động địa từ trời giáng xuống. Như hàng triệu người Nga, Jivago bị đánh bạt ra khỏi gia đình, quê hương khi cách mạng vô sản Nga ập xuống nước Nga, cuốn trôi tất cả: gia sản, vợ con, bè bạn, tình ái trong một xã hội thay đổi tận gốc rễ.
Chỉ có một điều không bao giờ thay đổi: là một thi sĩ, Jivago tiếp tục làm thơ. Lấy thơ làm nhân chứng, lấy thơ làm cái phao. Lấy thơ làm một nguồn hy vọng để vươn lên. Khi Jivago chết, người ta ở đâu đổ về rất đông, nhiều người không hề quen biết. Pasternak viết: người Nga yêu thơ, yêu thi sĩ. Nghĩa là yêu cái đẹp, nghĩa là chưa hoàn toàn tuyệt vọng. Chỉ hoàn toàn tuyệt vọng khi người ta không còn thiết tha đến điều gì, ngay cả cái đẹp. Đó là nét lạc quan nhất trong một cuốn sách đầy thảm kịch: chiến tranh, tang tóc, chia lìa, đổ vỡ. Một tia sáng lóe lên trong bầu trời đen tối.
mưa vẫn mưa rơi
Khi Charles Trenet[3] chết, hàng chục ngàn người kéo về đưa tang một nhạc sĩ – thi sĩ hiện đại nổi tiếng nhất của Pháp. Đưa tang Trenet, người Pháp, trong vài giờ, quên mình đang sống trong một xã hội vật chất, suốt ngày túi bụi giành giựt. Trong vài giờ, thấy mình vươn lên, thấy đời có ý nghĩa hơn, bởi còn yêu cái đẹp. Trenet viết: Những thi sĩ đã qua đời, nhưng tiếng hát của họ vẫn bay nhảy trên khắp đường phố[4].
TCS đã qua đời, nhưng tiếng hát của anh vẫn bay nhảy trong các hang cùng, ngõ hẹp. Không phải chỉ ở Việt Nam, mà trên khắp địa cầu. Người Việt, tan tác như một đàn gà mất mẹ, nương thân trên khắp nẻo đường thế giới, mang theo những kỷ niệm quê hương, mang theo mùi nước mắm, mùi sầu riêng, mùi phở và mang theo tiếng hát TCS. Tôi đã nghe TCS qua tiếng hát nhừa nhựa khói thuốc của Khánh Ly, tiếng hát thánh thót, không có tuổi của Thái Thanh, tiếng hát truyền cảm của Lệ Thu; và rất nhiều tiếng hát vô danh, tiếng hát của những người sống ở ngoại quốc nhưng chỉ nói tiếng Việt, của những người thuộc thế hệ sau này, hát TCS với một thứ tiếng Việt pha giọng Mỹ, giọng Pháp, giọng Đức... Tôi đã nghe tiếng hát TCS vọng ra từ những căn nhà ở New York, Tokyo, Budapest, Athènes hay Palerme… Một buổi chiều tàn, trong một bìa rừng ở Brésil (Ba Tây), cách Rio de Janeiro hàng ngàn cây số một nơi khỉ ho cò gáy, tưởng như không có hơi người, tôi nghe một giọng khàn khàn vọng ra từ một căn nhà gỗ. Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ/ Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao. Người hát là một ông già gốc Ấn Độ, sống ở Việt Nam từ nhỏ. Vượt biển, thuyền đắm, ông già được tàu Ba Tây vớt, ở lại Ba Tây, làm nghề canh rừng. Suốt ngày, lủi thủi một mình, tháng năm dài đằng đẵng, ông già Ấn mơ đến những cơn mưa trên tầng tháp cổ ở một xứ ông đã nhận làm quê hương.
Một ngày ở ngoại ô La Havanne, trong một tiệm ăn nhỏ trên bờ biển, nơi người ta bán lậu tôm hùm cho du khách (tôm hùm là tài sản quốc gia, chỉ để xuất cảng hay bán trong những tiệm ăn quốc doanh), tôi nghe một giọng hát đàn bà, rất trong, rất ngọt từ trong bếp vọng ra Ngày gió lớn tôi đi môi gọi thầm/ Gọi tên anh tên Việt Nam/ Gần nhau trong tiếng nói da vàng. Người hát là một bà Bắc kỳ, từ Hà Nội tới Cuba, trong một chương trình hợp tác gì đó giữa hai nước “xã hội anh em”, có lẽ đã mệt nhoài sau nhiều năm thề ăn gan uống máu quân thù.
Tác phẩm TCS đã đi sâu vào tâm hồn dân tộc. Nước ta có trên 80 triệu dân. Trừ trẻ con và những người không biết đọc, biết viết, có khoảng 50 triệu người làm thơ. Sự thực, không cần phải biết đọc, biết viết mới biết làm thơ: tác giả những câu thơ đẹp nhất trong văn chương Việt Nam, ca dao, là những người nông dân không biết đọc biết viết. Trong số 50 triệu người làm thơ, mỗi thế hệ cho vài ba thi sĩ. Những thi sĩ đi sâu vào tâm khảm đám đông, gặp gỡ tâm hồn một dân tộc còn hiếm hoi hơn nữa. TCS thuộc cái số hiếm hoi đó.
Sài Gòn, những ngày xáo trộn
Tiếng hát TCS đến với Sài Gòn vào những năm 60, ở trường đại học Văn Khoa Sài Gòn, nằm trên góc đường Gia Long – Nguyễn Trung Trực, ngay trung tâm thành phố. Sơn ở Bảo Lộc trôi giạt về, lai vãng thường xuyên vì cái sinh hoạt trẻ ở đó rất náo nhiệt. Trường đang rục rịch di chuyển một phần về cơ sở mới gần sở thú Sài Gòn vì số sinh viên tăng rất nhanh, trường cũ không đủ chỗ. Văn Khoa là trường đông sinh viên nhất ở Việt Nam. Xa rồi, cái trường Văn Khoa đầu tiên ngoài Bắc, do giáo sư Cao Xuân Huy sáng lập năm 1949, với số sinh viên vỏn vẹn có bảy người, gọi là thất hiền[5].
Trường di chuyển, nhiều giảng đường bỏ trống. Gọi là giảng đường cho sang, sự thực đó chỉ là những căn nhà tiền chế. Tất cả những gì gọi là sinh hoạt văn hóa xã hội của giới trẻ Sài Gòn kéo về, chiếm đóng những căn nhà tiền chế. Một phần dành cho CPS (Chương trình Phát Triển Sinh Hoạt Thanh Niên Học Đường), một phần dành cho hội họa sĩ trẻ, đoàn văn nghệ Nguồn Sống. Phần còn lại, một số sinh viên chúng tôi tịch thu làm nơi tập trung, hội họp. Hồi đó, người ta tự hào thuộc giới trẻ, có lẽ vì thất vọng với những gì “lớp già” để lại. Gia tài của mẹ để lại cho con, gia tài của mẹ, một nước Việt buồn. Họa sĩ trẻ, nhạc sĩ trẻ, ca sĩ trẻ… quên rằng người ta sớm muộn gì cũng… già. Các “cụ” trong nhóm Người Việt, Thế Kỷ 21 ngày nay đều là những người trẻ ngày xưa ở sân trường Văn Khoa.
Phải sống ở Văn Khoa những ngày ấy mới thấy sinh hoạt văn nghệ, sinh hoạt xã hội là một nhu cầu thiết yếu của tuổi trẻ, và nếu có cơ hội, sinh hoạt ấy bùng lên, tuổi trẻ bùng lên, đất nước không còn là một nước Việt buồn. Sống ở đó rất tiện: Văn Khoa nằm ngay trung tâm thành phố, đi vài bước là tới những tiệm cà phê nổi tiếng trên đường Catinat, vài bước là tới Khai Trí, tiệm sách lớn nhất Sài Gòn, tha hồ đọc sách cọp. Ông chủ Khai Trí là một người mê sách, muốn phát triển văn hóa, ông ấy khuyến khích sinh viên đọc sách cọp. Nhà cửa điện nước đều của chùa, rất tiện, trong khi hầu hết chúng tôi đều nghèo kiết xác, từ những ông họa sĩ trẻ, những ông văn nghệ sĩ có tiếng nhưng không có miếng ở đất nước của Tản Đà, Văn chương hạ giới rẻ như bèo, những ông ký giả đầu tháng đã hết lương, những ngày cuối tháng khó khăn, nhất là 30 ngày cuối tháng, theo cách nói của Coluche[6], đến đám sinh viên trong đầu đầy những mộng đổi đời, cải tạo xã hội và trong túi không có đủ tiền uống một ly cà phê.
đại bác đêm đêm vọng về…
Từ 1963, sinh hoạt giới trẻ Sài Gòn cực kỳ náo nhiệt. Chúng tôi sống ở ngoài đường nhiều hơn ở trong nhà hay trong lớp học. Hết biểu tình, hội thảo chống đàn áp Phật giáo dưới thời ông Diệm, đến hội thảo, biểu tình chống các chính phủ thi nhau lên xuống. Xuống đường trở thành một sinh hoạt thường nhật. Giữa những cuộc biểu tình, những buổi hội thảo, thỉnh thoảng ghé vào giảng đường học vài chữ cho phải phép. Đó là giai đoạn giới trẻ tham gia tích cực vào đời sống chính trị xứ sở. Với lòng nhiệt thành, và cố nhiên với đôi chút ngây thơ. Ngây thơ tin vào sức mạnh vạn năng của tuổi trẻ, nhất là khi thấy chỉ vài buổi xuống đường cũng đủ lật đổ một chính phủ, một ông tướng, một chính khách; và quên mất rằng trong cái hỗn loạn của đất nước, người Việt chỉ là những quân cờ thí.
Trước Tết Mậu Thân, lớp trẻ Sài Gòn còn tin tưởng, chưa hoàn toàn mệt mỏi, tuyệt vọng. Những ngày đầu thập niên 60, chiến tranh chưa thực sự len vào thành phố, mặc dù hàng ngày vẫn đọc trên báo những cuộc đụng độ nẩy lửa ở Pleiku, Cà Mau, Đồng Xoài, Bình Giả... thỉnh thoảng chứng kiến những vụ pháo kích; thỉnh thoảng họp nhau, nhậu vài két la-de, lạc rang, củ kiệu, tiễn một người bạn lên đường nhập ngũ. Chiến tranh còn ở xa, đại bác đêm đêm dội về thành phố/ Người phu quét đường dừng chổi đứng nghe. Dân Sài Gòn chưa  tận mắt thấy những xác người nằm chết như mơ, những xác người nằm bơ vơ dưới mái hiên chùa, trong giáo đường thành phố, trên thềm nhà hoang vu.
Sinh hoạt trẻ Sài Gòn ồn ào, sinh hoạt trẻ Văn Khoa còn náo nhiệt hơn nữa. Bên cạnh những hoạt động chính trị, những cuộc xuống đường, còn rất nhiều những đêm không ngủ, những hội Tết, những đêm văn nghệ Nguyễn Đức Quang, Nguồn Sống, những ngày túi bụi làm báo Xuân, nguyệt san Đối Thoại. Ở đó, (và ở trụ sở Tổng Hội Sinh viên Sài Gòn), Phạm Duy ra mắt trường ca Mẹ Việt Nam, Vũ Thành An ra mắt bài hát đầu tay. Chúng tôi, tuổi 20, kề vai nhau nghe Lệ Thu ngủ đi em, mộng bình thường/ ru em sẵn tiếng thùy dương đôi bờ, nghe Thái Thanh ca tụng mẹ Việt Nam không son không phấn, mẹ Việt Nam chân lấm tay bùn (nhạc Phạm Duy); và thực tình xúc động với cái viễn ảnh Việt Nam quê hương đất nước sáng ngời. Cái viễn ảnh ấy, trong những đêm không ngủ, tựa vai nhau, chỉ tưởng tượng cũng đã muốn khóc. Trước cái trống rỗng của hiện tại, và cái lo lắng cho một tương lại mù mịt, người ta ngồi sát lại nhau, người ta nắm tay nhau, xin chờ những rạng đông. Những câu hát đẹp như thơ của Sơn đã đi thẳng vào lòng người.
Phong trào hoạt động xã hội cũng phát triển rầm rộ. Ảnh hưởng của phong trào thanh niên chí nguyện quốc tế của Kennedy, những hội đoàn như CPS, Thanh Niên Thiện Chí, Thanh Niên Chí Nguyện v. v… mọc ra như nấm. Tuổi trẻ tích cực tham gia những lần đi cứu trợ nạn lụt ngoài Trung, cải biến những xóm nghèo ở thành phố, leo lên những làng Thượng dạy học, đào giếng, chữa bệnh. Có anh tham dự vào những ngày cuối tuần, có anh bỏ học, hoạt động hai ba tháng, nhiều khi cả năm. Đó là một tuổi trẻ còn đầy lý tưởng, còn yêu đời, yêu người, còn đầy tình người trong mạch máu, ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau.
Điều đó chứng tỏ tuổi trẻ rất tha thiết dến dân tộc, sẵn sàng đóng góp cho đất nước. Nếu họ thờ ơ với đất nước như người ta than phiền, lỗi không phải ở họ: người ta đã không tạo cơ hội cho tuổi trẻ tham gia. Họ bị gạt ra ngoài lề. Đất nước không còn là đất nước của họ.
đường phượng bay
Bìa album Sơn Ca 7 với Khánh Ly hát những tình khúc Trịnh Công Sơn (1974)
TCS đến với Văn Khoa trong bối cảnh đó. Sơn không phải sinh viên Văn Khoa; anh ở Huế vào, bỏ học vì hoàn cảnh gia đình. Những đêm trăng, chúng tôi ngồi trên bãi cỏ trước quán Văn, nghe Sơn đàn, nghe Khánh Ly hát. Khánh Ly sinh ra để hát TCS, cũng như Thái Thanh sinh ra để hát Phạm Duy.
Quán Văn là một ngôi nhà tiền chế, nằm giữa sân trường Văn Khoa. Một nhóm thổ công Văn Khoa sửa sang lại, biến thành môt quán cà phê, làm nơi tụ họp, gặp gỡ. Đúng là một cái quán, đơn sơ, nhưng đầy tình bè bạn. Giống như một cái quán ở miền quê, nơi người nông dân ghé qua, uống một bát chè tươi, hút một điếu thuốc lào, ngâm vài câu thơ, vài câu ca dao, tán gẫu với nhau sau những giờ lao động. Ở đó, chúng tôi khám phá ra cái đậm đà của tình bạn, cái thi vị của những buổi hẹn hò. Ở đó đã nở ra những mối tình, đôi khi dang dở, nhưng có nhiều cặp còn keo sơn tới ngày nay.
Sơn, người nhỏ bé, gầy gò, ăn nói nhỏ nhẹ, ôn tồn (tôi chưa hề thấy một TCS giận dữ, gây gổ bao giờ), Sơn trở thành bạn của mọi người một cách rất tự nhiên. Đôi mắt tinh anh, láu lỉnh, nụ cười hiền lành như một thầy tu, Sơn có cái phong thái của một thi nhân, cái khiêm tốn của một người có thực tài. Từ cách nâng ly uống một ly rượu, tiếp chuyện với bạn bè, cách trang phục, giản dị nhưng trang nhã, cái phong thái thi nhân ấy hiện diện ở Sơn, thường trực, tự nhiên. Đừng tưởng ông thi sĩ nào cũng có phong thái thi nhân. Sartre nói về Heidegger, một triết gia hàng đầu mà chính ông chịu nhiều ảnh hưởng: “Có những người ta chỉ nên biết tác phẩm, không nên biết đến con người, nếu không muốn thất vọng”. Heidegger là một triết gia lỗi lạc, lại cũng là người theo chủ nghĩa Nazi. Tôi đã quen những ông thi sĩ, tác giả những câu thơ rất đẹp mà lại ăn uống, cư xử như một con heo đực.
TCS ở ngoài đời rất giống TCS người ta tưởng tượng khi nghe những bản nhạc tình của anh.
Chúng tôi, mới đầu, ngạc nhiên thấy một gã người Huế, rất thanh nhã, rất ung dung, từ tốn; không phải cái từ tốn của một ông già, mà là cái ung dung quí phái của một con mèo, với nụ cười hiền hòa thường trực trên môi. Sơn học chương trình Pháp, nhưng xử dụng tiếng Việt một cách tài tình. Nhiều chữ rất tầm thường, với Sơn, chợt trở nên truyền cảm; nhiều chữ do Sơn bịa ra, nhiều hình ảnh đến từ một trí tưởng tượng phong phú, nếu không nghe Sơn giải thích, chắn chắn không ai hiểu. Mặc dù vậy, người ta cũng vẫn rung động, vẫn thấy cái Sơn nói đến rất thực, rất gần gũi. Đó là cái ma lực của chữ nghĩa, của thơ khi thơ đạt, khi chữ nghĩa có duyên nợ với nhau. Nhiều chữ, nhiều câu rất cũ, đột nhiên ở Sơn trở thành rất mới. Nhiều chữ nhiều câu rất cầu kỳ, đột nhiên gần gũi. Khi thất tình, người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ, khi tuyệt vọng, mùa thu không về, mùa xuân cũng ra đi, ngay cả khi nói đến chiến tranh tang tóc, xác người nằm như mơ, TCS không lúc nào quên mình là thi sĩ.
TCS nói về những cái rất riêng tư, những kỷ niệm rất riêng tư, qua một ngôn ngữ rất riêng tư. Và lạ lùng, cái riêng tư ấy của thi sĩ thấm vào lòng người nghe. Người ta xúc động mặc dù không hiểu từng câu, từng chữ. Nhất là trong những bản nhạc tình. Nói về chiến tranh, ngôn ngữ TCS là ngôn ngữ của mọi người; chiến tranh là một tai họa chung, một thảm kịch của cả một dân tộc, không phải là thảm kịch của một cá nhân, mặc dù mỗi cá nhân là một thảm kịch.
Một người bạn tôi nói khi nghe Sơn hát đường phượng bay mù không lối vào, anh thấy hình ảnh rất đẹp, rất mới, nhưng không biết tác giả nói gì, cho đến một hôm, ở một tỉnh nhỏ, anh thấy hoa phượng rơi, bị gió cuốn mịt mù, đỏ rực cả con đường trước mắt.
Nếu không quen Sơn, ít ai biết trời cao níu bước sơn khê, nói đến một người bạn gái tên Khê; ngàn cây thắp nến lên hai hàng/ để nắng đi vào trong mắt em mô tả những tia nắng cuối cùng của một buổi chiều tà đọng trên những ngọn cây, giống như ngàn cây thắp nến.[7]
Ngôn ngữ TCS khác với ngôn ngữ Phạm Duy (PD). Ngôn ngữ PD là ngôn ngữ ca dao. Hình ảnh của PD là hình ảnh của ca dao. Nhiều câu, nhiều hình ảnh trong nhạc PD không hiểu là của PD hay mượn từ ca dao. Đó không phải một lời chỉ trích; đó là một lời ca ngợi. Bởi vì dùng ngôn ngữ của một dân tộc, nói lên tình tự của dân tộc không phải ai cũng làm được, là một điều rất đáng tự hào. Lời ca của PD ai cũng hiểu, hình ảnh của PD ai cũng đã từng thấy, vì trong tiềm thức, chúng ta đã sống với ca dao từ hàng ngàn năm nay. Trong một bài báo ngày xưa ở trong nước[8], tôi viết tiếng hát Thái Thanh không có tuổi, vì đã làm say mê ba thế hệ. Tôi nghĩ thêm: tiếng hát Thái Thanh qua nhạc PD không có tuổi vì chúng ta vẫn nghe từ hàng ngàn năm nay. Tiếng hát ấy gợi ra trong đầu người nghe những cánh đồng lúa xanh, tiếng cười rúc rích của cô thôn nữ, những làn khói lam trên những mái nhà tranh, tiếng chuông chùa ngân nga, tiếng hò hát của người nông dân những ngày được mùa, tiếng nghẹn ngào của bà mẹ mù mắt chờ con đi chinh chiến, tiếng than vãn của những đời lầm than, đen tối. PD sống với ca dao, thở với ca dao, cười khóc bằng ca dao. Ít có người Việt Nam nào Việt Nam hơn PD. Có lẽ có một người: Nguyễn Bính. Nguyễn Bính là ca dao, ca dao là Nguyễn Bính.
hai nghệ sĩ, hai cuộc chiến
Trên bãi cỏ trường Văn Khoa, trước quán Văn, TCS và Khánh Ly hát trước hàng ngàn người hay chỉ năm, bảy anh em. Không phải chỉ hát cho tình yêu. Sơn càng ngày càng bị ám ảnh bởi chiến tranh. Từ hình ảnh lãng mạn của người phu quét đường dừng chổi đứng nghe, chiến tranh trở thành cụ thể hơn, ghê rợn hơn:
Một buổi sáng mùa xuân /  Một đứa bé ra đồng /  Đạp trái mìn nổ chậm /  Xác không còn đôi chân.
Nhạc tình TCS là những tiếng thở dài, có buồn cũng chỉ buồn thoang thoảng: mùa đông vời vợi, mùa hạ khói mây, có trách cũng chỉ trách nhẹ nhàng: từng người tình bỏ ta đi, như những giòng sông nhỏ. Một thái độ rất thiền, rất ‘zen’: trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt, rọi suốt trăm năm một cõi đi về.
Nói về chiến tranh, TCS kêu gào, phẫn nộ. Chiến tranh không còn từ xa vọng về như những ngày đầu, nó ở trước mắt: Xác người nằm trôi sông phơi trên ruộng đồng/ trên nóc nhà thành phố trên những đường quanh co. Cùng với cuộc chiến càng ngày càng dữ dội, tiếng kêu gào của Sơn càng ngày càng thảm thiết. Anh nói đến những em bé lõa lồ, suốt đời lang thang, đến những xác người nằm bơ vơ, dưới mái hiên chùa, đến những trái mìn nổ chậm, người chết hai lần. Chiến tranh trở thành khốc liệt, tang tóc đổ xuống dân tộc kinh hoàng. Hàng vạn chuyến xe, claymore lựu đạn/ Hàng vạn chuyến xe mang vô thị thành/ Từng vùng thịt xương, có mẹ có em. TCS của chiến tranh trở thành một người dở điên, dở dại, thất thểu, chiều đi trên đồi cao, hát trên những xác người. Hình ảnh bi thảm, ma quái. Một thi sĩ thất thểu trên Bãi Dâu, hát bên những xác người. Đi trên đồi cao, bên cạnh xác người là một hình ảnh bi thảm, nhưng hát bên những xác người, hình ảnh mang thêm một cái gì ma quái, điên dại. Bi đát như chiến tranh với những con ngựa hý điên cuồng trong tác phẩm Guernica của Picasso.
Ngôn ngữ TCS về chiến tranh khác với ngôn ngữ TCS về tình yêu. Chiến tranh trong nhạc TCS cũng khác chiến tranh trong nhạc Phạm Duy. PD có “cái may” sống trong một cuộc chiến tranh chống Pháp, có địch, có thù, chiến tuyến phân minh. PD 24 tuổi lên đường tham gia kháng chiến, như hàng ngàn hàng vạn thanh niên khác. Chiến tranh trong nhạc tiền chiến của PD nó hào hùng, nó bừng bừng khí thế. PD tiền chiến không có cái cấu xé, cái dằn vặt. Cái chọn lựa của PD nó hiển nhiên. Nhạc PD không có cái lưỡng lự, nó là một tiếng quân ca, tiếng gọi lên đường. Bên cạnh cái hào hùng là cái lãng mạn của một trí thức tiểu tư sản ở tuổi 20, của một nghệ sĩ giàu tình cảm. Đó là cuộc chiến của những cô nàng gánh lúa cho anh đi diệt thù, của những chiến sĩ dừng chân trên chiếc cầu biên giới tưởng tới người yêu ở quê xa.
Điều đó không có nghĩa là trong nhạc PD không có cái bi thảm của chiến tranh. Nhạc PD có Bà Mẹ Gio Linh lên đường đi kiếm xác con bị giặc chặt đầu, có bà mẹ đón người con thương binh trở về, tiếc rằng ta đôi mắt đã lòa vì quá đợi chờ. PD nói ông làm tới ba bài người thương binh vì ông sống qua ba cuộc chiến. Tác giả Con Đường Cái Quan nói ông khác xa những nghệ sĩ khác thời tiền chiến vì họ chỉ làm nhạc hùng; trong khi ông nói cả đến cái bi thảm của chiến tranh. Nhưng cái tàn phá của chiến tranh, cái thảm họa đổ lên đầu dân tộc càng khiến PD thấy cuộc chiến tranh của mình có ý nghĩa hơn. PD thuộc những người, như Malraux nói, không thích chiến tranh, (bởi vì có những người thích chiến tranh, coi đó là lẽ sống) nhưng tham chiến một cách dứt khoát vì là chuyện phải làm.
Cuộc chiến của TCS khác, cái nhìn của TCS khác. Đối với Sơn, đó chỉ là một cuộc nội chiến tương tàn. Nạn nhân là nước Việt, người Việt:
Hàng vạn tấn bom trút xuống ruộng đồng/  Cửa nhà Việt Nam cháy đỏ cuối thôn.
Lật xác người chết, chỉ thấy đồng bào, cha mẹ, anh em:
Bên xác người già yếu có xác còn thơ ngây/ Xác nào là em tôi dưới hố hầm này/ Trong những vùng lửa cháy bên những vồng ngô khoai.
Những câu hát làm người ta nghĩ đến chiến tranh của Quang Dũng:
Mẹ tôi, em có gặp đâu không/ Những xác già nua ngập cánh đồng/ Tôi cũng có thằng em bé dại/ Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông.
Ngay cả ở cùng một thời điểm, cái nhìn về chiến cuộc của hai nhạc sĩ cũng khác nhau. Với TCS, đó là một cuộc nội chiến mà người Việt Nam là nạn nhân. Với PD, đó là cuộc chiến Quốc Cộng nối dài, mặc dù sau này, Phạm Duy, vì cơm ăn áo mặc, hay vì một lý do gì khác, đã vứt bỏ cái hình ảnh của một nghệ sĩ dấn thân, đánh đổi vai trò thần tượng của một thế hệ để đóng vai trò “hàng thần lơ láo”. Ca ngợi cái chết của một phi công, Phạm Phú Quốc, PD nói: Ðặt tên cho anh anh là Quốc/ Ðặt tên cho anh anh là nước/ Ðặt tên cho người đặt tình yêu nước vào nôi. Viết cho một phi công khác tử trận, TCS không nói đến chiến công, không ca ngợi anh hùng, chỉ nói đến một kiếp người: Anh nằm xuống sau một lần đã đến đây/ Đã vui chơi trong cuộc đời này/ Đã bay cao trong vòm trời này.
Trong bài “Kỷ vật cho em”, thơ Linh Phương, PD phổ nhạc, có câu: anh trở về bại tướng cụt chân. Nếu Sơn là tác giả, tôi nghĩ chắc Sơn viết anh trở về vì đã cụt chân. Đối với Sơn, không có thắng có bại; chỉ có người Việt Nam bị cuốn hút vào một cuộc chiến tương tàn. Nếu chưa bị cụt chân thì còn đánh nhau. Đó là một cái nhìn cực kỳ bi đát về cuộc chiến.
nghệ sĩ và cuộc chiến
Trong cuộc chiến ấy, TCS không có chỗ đứng.
Người Cộng Sản không chấp nhận anh là chuyện đương nhiên. Với người CS, không có chuyện lưng chừng, lưỡng lự, phân vân. Những người không hoàn toàn theo họ là những kẻ thù. Những người chống Cộng lên án Sơn đã trở cờ. Nhưng đọc kỹ những lời ca anh viết sau 75, không thấy một lời ca chứng tỏ anh về hùa, tâng bốc nhà cầm quyền. Nó vẫn chỉ là những lời ca ngợi tình yêu; kêu gọi tình anh em, nghĩa đồng bào. Không hề thấy hô hào thù hận, như Xuân Diệu chẳng hạn, khi “nhà thơ của tình yêu” (!) kêu gọi đấu tố năm nào:
Lôi cổ bọn chúng ra đây/ Bắt quỳ gục xuống đoạ đày chết thôi/ Bắt chúng đứng, cấm cho ngồi/  Bắt chúng ngước mặt, vạch người chúng ra.
Còn nhạc gọi là phản chiến trước 75? TCS chỉ làm công việc của một nghệ sĩ: diễn tả cái thảm kịch của chiến tranh, cái đọa đày của một dân tộc. Ai mà không chia sẻ giấc mộng của Sơn: Khi đất nước tôi không còn giết nhau, trẻ em đi hát đồng dao ngoài đường.
Một câu hỏi đáng được đặt ra: TCS có ảnh hưởng xa gần đến việc miền Nam thua trận? Có thể. Rất có thể. Một người lính xúc động vì hàng vạn tấn bom trút xuống ruộng đồng/ từng vùng thịt xương có mẹ có em chắc chắn không chiến đấu hăng say bằng những người cuồng tín. Một người lính than vãn ôi chinh chiến đã mang đi bạn bè/ Ngựa hồng đã mỏi vó/ Chết trên đồi quê hương, chắc chắn không chém giết hữu hiệu bằng một người lính suốt đời chỉ được dạy ăn gan uống máu quân thù. Một quân đội suốt ngày nghe (trên đài phát thanh nhà nước!) những câu người già co ro, buồn nghe tiếng nổ/ Em bé lõa lồ, khóc tuổi thơ đi, chắc chắn không xả súng tưng bừng bằng một cán bộ suốt đời chỉ biết vực sâu thăm thẳm, vực nào sâu bằng chí căm thù (Hò kéo pháo). Nhưng nếu cuộc chiến đấu của miền Nam có ý nghĩa, cái ý nghĩa ấy chính ở chỗ nó cho phép mọi người, trong đó có nghệ sĩ, được tự do diễn đạt tư tưởng của mình. Đó là cái yếu của một chế độ dân chủ, ngay cả dân chủ tương đối. Năm người mười ý, trống đánh xuôi, kèn thổi ngược. Đó cũng là lẽ sống của một nền dân chủ. Đó là cái giá phải trả, bởi vì không có chọn lựa nào khác. Nói theo kiểu Winston Churchill: dân chủ là chế độ dở nhất, nếu không kể các chế độ khác.
Khó trách người nghệ sĩ bày tỏ sự rung động của mình trước cái đau thương của đồng bào. Ngay cả Phạm Duy, tác giả bài ca tụng Phạm Phú Quốc, người đã tử nạn trong chuyến oanh tạc miền Bắc, Ðặt tên cho anh anh là Quốc/ Ðặt tên cho anh anh là nước/ Ðặt tên cho người đặt tình yêu nước vào nôi, cũng đã kêu giết người đi thì ta ở với ai? Khó trách nghệ sĩ bày tỏ sự rung động của mình. Cái điều lạ, cái cảnh khó tin nhưng có thực, là những đêm không ngủ chống chiến tranh ở Văn Khoa ngày xưa diễn ra ngay ở trung tâm Sài Gòn, với… cảnh sát, quân đội giữ an ninh chung quanh sân trường. Nếu TCS sống ở miền Bắc, chắc chắn anh đã bỏ mạng trong trại cải tạo, và chúng ta sẽ không bao giờ có được những Diễm xưa, Tuổi đá buồn…
huyền thoại da vàng
Nhiều người trách cái ngây thơ chính trị của TCS. Nhưng cái ngây thơ chính trị của nghệ sĩ, của trí thức là chuyện rất phổ thông. Chỉ cần nêu trường hợp Jean Paul Sartre, suốt đời hô hào ủng hộ cách mạng vô sản, nhắm mắt trước cái dã man, chà đạp nhân quyền trong những goulag. Chiến tranh, chính trị phức tạp hơn là tình cảm của nghệ sĩ.
Chẳng hạn, TCS day dứt về thân phận “da vàng” đến kiếp nô lệ “da vàng”; hết tiếng nói “da vàng” đến dư khúc “da vàng”. Làm như cái bất hạnh của dân tộc nằm trong cái nghiệp sinh ra từ màu da, quên rằng nhiều dân tộc khác, cũng vàng khè không thua gì người An Nam ta, đang tiến nhanh, tiến mạnh. Nhật Bản đã làm Tây phương thất điên bát đảo trên mọi phương diện, Đại Hàn trở thành một cường quốc, Trung Cộng sẽ là một trong hai lãnh tụ thế giới, và những nước phát triển nhất trên địa cầu, Đài Loan, Singapore là những nước da vàng. Một triết gia nói: “Có hai loại người, những người chấp nhận làm nô lệ và những người không chấp nhận”. Vàng, xanh, trắng, đỏ không liên hệ gì đến thân phận của một dân tộc. Ai đã gặp một người Nhật có mặc cảm da vàng? Họ không muốn thua ai, không muốn bằng ai, họ muốn trên mọi người, đứng đầu thiên hạ, họ không biết hai chữ thân phận, vàng hay xanh.
Những câu hát phản chiến của TCS là những tiếng nói của tình cảm, không phải là một phân tách chính trị, không phải những hô hào chính trị. Đó chỉ là những giọt nước mắt, Giọt nước mắt thương đất, đất cằn cỗi bao năm, giọt nước mắt thương dân, dân mình phận long đong, thoát ra từ trái tim, mặc dù những giọt nước mắt đó, vì khả năng truyền cảm của nó, chắc chắn đã có ảnh hưởng đến chính trị, đến chiến cuộc.
chữ nghĩa ích gì
Từ những năm 64-65, chiến tranh càng ngày càng dữ dội. Xã hội càng ngày càng xáo trộn, tình hình chính trị càng ngày càng nát bét. Ngay cả trong bối cảnh đó, trường Văn Khoa vẫn sinh hoạt mạnh. Số sinh viên càng ngày càng đông. Ban giảng huấn đã rất tận tụy góp phần vào việc phát triển trường Đại Học Văn Khoa Sài Gòn. Cố nhiên, đó chưa phải là một trường đại học tân tiến, kiểu mẫu. Phương pháp giáo huấn còn cổ hủ, từ chương khoa cử, chưa thực sự có đối thoại, trao đổi giữa thầy và trò. Nhưng ngay cả ở Sorbonne, cũng vẫn còn cái cảnh ông thầy ngồi trên giảng đường, thao thao bất tuyệt, đám sinh viên ngồi dưới hí hoáy biên chép như các cụ đồ ngày xưa dạy học.
Nền giáo dục Việt Nam thời đó hoàn toàn miễn phí, từ mẫu giáo đến đại học. Trong một nước chiến tranh, thực hiện một nền giáo dục hoàn toàn miễn phí là một cố gắng đáng kể. Người ta có thể chê trách chế độ rất nhiều điểm, nhưng đó là một điểm son phải ghi nhận. Điểm son đó là nhờ ý thức của những người có trách nhiệm, hay nhờ truyền thống tôn trọng học vấn của một xã hội chịu ảnh hưởng Khổng giáo? Khổng giáo, ít nhất trên phương diện đó, có khía cạnh tích cực với xã hội VN. Điều chắc chắn: nếu không có nền giáo dục hoàn toàn miễn phí, hầu hết chúng tôi đã bỏ học từ lâu.
Một câu hỏi luẩn quẩn trong đầu tôi từ nhiều năm: một trường Văn Khoa đóng vai trò gì trong một nước chiến tranh? Sách vở ích gì cho buổi ấy? (Nguyễn Khuyến). Bên cạnh bom nổ, thịt rơi, cái sống cái chết gần kề, có phi lý không khi ngồi đó mổ xẻ “Tứ thư ngũ kinh”, phân tích tư tưởng Socrates, tìm hiểu nguồn gốc chữ Nôm. Bên cạnh cái nghèo đói của một xã hội lạc hậu, có vô nghĩa không khi ngồi đó tụng niệm kinh điển bách gia, rung động với Lord Byron hay Beaudelaire? Sartre nói: Bên cạnh một đứa trẻ chết đói, cuốn La Nausée không có một giá trị gì.
Câu hỏi ấy lởn vởn trong đầu, rất nhiều năm, và tôi đã thực sự nhiều lúc hoài nghi, không tìm được câu trả lời.
Câu trả lời, mãi sau này tôi mới tìm ra. Câu trả lời tên là Céline, một cô bạn Pháp. Một buổi chiều thứ bảy, tôi lên phi trường đón Céline từ Sarajevo về. Céline là một thiếu nữ thông minh, có bằng cấp, có chỗ làm tốt trong một công ty lớn, sống nhàn hạ trong cái xã hội hưởng thụ là cái xã hội Pháp. Weekend bay qua Madrid hay Marakech. Mùa đông trượt tuyết ở Courchevel, mùa hè nghỉ mát ở Bali hay Bora Bora. Tóm lại, cô nàng có đủ thứ để hạnh phúc. Nhưng thay vì hạnh phúc, Céline lúc nào cũng tất tả ngược xuôi, mệt mỏi cả thể xác lẫn tinh thần; nhất là tinh thần. Rồi thuốc ngủ, thuốc an thần, hết Lexomil đến Prozac.
Một buổi, Céline dẹp hết, bỏ việc, bán nhà, bán xe. Và biệt tăm. Adieu Céline. Cho đến cái hôm ở phi trương, tôi gặp lại Céline, nhưng một Céline khác, má rất hồng và miệng rất tươi. Céline nói sau khi vứt bỏ mọi chuyện, cô nàng gia nhập một ban hợp tấu, lưu diễn khắp nơi. Céline là một tay violon thiện nghệ, từ nhỏ vẫn mơ thành nhạc sĩ. Céline lãnh một số lương tượng trưng, đủ cà-phê, thuốc lá, vì ban nhạc thường đi trình diễn ở những nước nghèo. Họ vừa ở Sarajevo về. Trình diễn hòa tấu ở Sarajevo, nơi người ta giết nhau như ngóe, nơi người ta thí mạng để cướp một ổ bánh mì, một cái mền? Ở đó, người ta chờ bột mì, thịt cá, đường muối, bột giặt, aspirine, ai chờ Beethoven với Mozazt? Ban đầu, Céline cũng nghĩ như vậy. Nhưng đêm trình diễn nào cũng đông nghẹt.
Trong một ngôi nhà thờ đổ nát, một trường học còn đang cháy dở, mưa dột vì mái nhà bị pháo kích loang lổ, người ta chen lấn nhau tới nghe nhạc. Ban ngày, người ta chạy bom, giành giựt nhau miếng ăn, một mớ củi để sưởi. Đêm xuống, người ta kéo nhau đi nghe nhạc. Đàn bà lục hành lý, lôi ra những nữ trang, những bộ quần áo đẹp. Có ông thắt cà vạt chỉnh tề. Có bà vừa nghe nhạc vừa lặng lẽ khóc. Céline vừa chơi nhạc vừa cầm nước mắt. Cô nàng vừa tìm thấy hạnh phúc. Chưa bao giờ cô nàng thấy yêu đời như vậy, yêu mình như vậy. Lần đầu tiên, Céline thấy mình có ích. Cô ta tìm thấy hạnh phúc của mình trong cái hạnh phúc của người khác. Y chang tâm trạng của lớp người trẻ chúng tôi ngày xưa khi đi cứu lụt, đào giếng.
Céline nói có thấy tận mắt cái cảnh người ta lấy tờ báo che mưa nghe nhạc trong một ngôi nhà đổ nát, mới thấm thía cái câu quen thuộc của người Pháp: Người ta không phải chỉ sống bằng bánh mì[9]. Ngay cả trong những lúc khốn cùng, cái đẹp, cái thẩm mỹ không phải là một xa xỉ, vô ích. Cái đẹp sẽ cứu nhân loại, không phải Marx hay Lénine, không phải Bin Laden hay Bush.
Cái đẹp sẽ cứu vãn nhân loại. Người ta đã từng giết nhau, hành hạ nhau, bỏ tù nhau nhân danh thượng đế, nhân danh chính nghĩa, nhân danh giáo điều, nhân danh đất nước, nhân danh đồng bào, nhân danh chân lý. Chưa bao người ta giết nhau nhân danh cái đẹp. Người ta giết nhau vì thánh kinh, vì Coran, vì Hitler, vì Mao, vì Mác, chưa bao giờ người ta giết nhau vì Picasso, vì Beaudelaire, vì Nguyễn Du. Sau này, khi giận hờn sẽ quên, những gì người ta nhớ lại về TCS là những bài hát, những câu thơ đẹp.
Cái đẹp sẽ cứu vãn nhân loại. Cái đẹp không phải chỉ là những tác phẩm văn hóa. Cái đẹp còn là, cũng là, nhất là tình người, một xã hội của những người tử tế, lương thiện. Đem cái dối trá, đểu cáng, bất nhân làm tiêu chuẩn cho đời sống là cách hữu hiệu nhất để làm tiêu vong dân tộc. Biến Xuân Diệu, tác giả của “tôi khờ dại quá, ngây thơ lắm. Chỉ biết yêu thôi, chẳng biết gì”, của “ít nhiều thiếu nữ buồn không nói, tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì”, thành một người gào thét, căm hờn “lôi cổ bọn chúng ra đây”, là thành quả ghê rợn nhất của công cuộc hủy diệt cái đẹp.
Ismail Kadaré nói ngay cả trong những lúc cực kỳ khó khăn vẫn phải có thái độ nghiêm trọng đối với văn hóa. Kadaré sinh ra, lớn lên và viết văn trong một hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, ở một nước Cộng Sản độc tài bực nhất thế giới: Albanie. Kadaré viết văn trong một xứ kiểm duyệt khắt khe, một nước vỏn vẹn ba triệu dân, nghèo đói, người mù chữ đông hơn người biết đọc, biết viết. Và viết bằng tiếng Albanie. Mặc dầu vậy, ông viết văn với một thái độ cẩn trọng. Ngày nay, Kadaré được coi là một trong những nhà văn quan trọng nhất thế giới.
Nghệ thuật, cái đẹp có công dụng gì? Chẳng có công dụng gì. Nhưng đời sống không có cái đẹp sẽ buồn tẻ biết bao nhiêu. Bức tượng của Michel Ange, bức tranh của Van Gogh không có công dụng gì, nhưng hãy tưởng tượng một thế giới không có Michel Ange, Van Gogh. Hãy tưởng tượng Paris không có tháp Eiffel, New York không Nữ Thần Tự Do.
Nghe cô nàng Céline kể chuyện về những buổi trình tấu ở Sarajevo, tôi hiểu rằng trong một xứ chiến tranh, nghèo đói, một trường Văn khoa chẳng có ích lợi thiết thực gì, nhưng nó là cái cốt yếu cho một dân tộc còn muốn vươn lên.
đời sao im vắng
Tôi gặp lại TCS những ngày cuối cùng của năm 1999, khi về thăm Việt Nam. Sơn ngồi trước một cái bàn nhỏ, trong sân Hội Văn Nghệ Sĩ gì đó ở Sài Gòn. Vẫn nụ cười hiền lành, nhưng buồn bã, vẫn thái độ từ tốn, phong nhã, vẫn đôi kính đồi mồi nhưng trước mắt tôi là một TCS lục tuần bịnh hoạn, mệt mỏi, mặc dầu đôi mắt vẫn sáng lên khi nghe đến tin bè bạn. Sơn hỏi thăm tin tức về người này ở bên Tây, người kia ở bên Mỹ. Sơn nói về những người ở lại, kẻ mất, người còn.
Bơi trong cái áo sơ mi rộng thùng thình, Sơn nói: mình chỉ còn 39 kí. Sơn nói rượu đã tàn phá lá gan đến độ không có thuốc gì chữa nổi. Có người sẵn sàng đưa anh đi ngoại quốc giải phẫu gan nhưng anh từ chối. Sơn nói anh rất mệt, nhiều khi xây xẩm mặt mày vì bịnh áp huyết thấp (hypotension).
Vừa nói chuyện, Sơn vừa chào hỏi những người qua lại. Vị nhạc sĩ lão thành, tác giả bài Dư Âm nổi tiéng hồi nào ở Hà Nội (Đêm qua mơ dáng em đang ôm đàn dìu muôn tiếng tơ…) kể chuyện đi thăm bác sĩ, chuyện thuốc men. Nhạc sĩ Trần Tiến nói về đêm ca nhạc thành công tuần trước. Ông Vũ Hạnh chạy qua chạy lại hối bài cho một đặc san kỷ niệm “cuộc chiến chống Mỹ cứu nước”.
Sơn ngồi đó, mỉm cười hiền lành, buồn bã. Tôi hỏi Sơn có tính đi ngoại quốc chơi một chuyến, nhân tiện chữa bệnh, dù tôi biết Sơn đang sống những ngày tháng cuối cùng. Nếu người nghiện rượu tiếp tục uống, dù có thuốc thánh, dù có giải phẫu gan cũng không thay đổi gì. Sơn không muốn nghỉ rượu, hay không nghỉ được. Sơn nói mình uống ít hơn trước nhiều. Sơn mỉm cười: mình sang đó, sợ các ông ấy đập mình. Rồi tiếp: sự thực thì ở bên Pháp không có vấn đề gì, bên Pháp ít có người quá khích; kỳ trước mình qua Pháp, anh em đãi ngộ rất tử tế.
Sơn tiếp: nói cho đúng, mình mệt lắm, có muốn cũng không đi được. Sơn nói, từ tốn, không lộ một chút xúc động. Anh đang ở một cõi khác, những cái lăng nhăng ở cuộc đời này không liên hệ gì đến anh nữa. Nghe tôi sắp đi Nhật, Sơn nhắc đến một cô sinh viên Nhật Bản đã làm một luận án về ngôn ngữ và chiến tranh trong nhạc TCS.
Khi tôi ra về, Sơn đưa cho tôi số điện thoại ở nhà riêng: “Ráng đến chơi, mình có chuyện muốn nói. Thằng em mình, biết cậu về, chắc nó mừng lắm”. Em Sơn ngày xưa cũng la cà ở quán Văn.
Tôi nghĩ Sơn muốn nói những gì không thể nói được ở một nơi có nhiều người qua lại. Tôi ân hận vì không có thì giờ tới nhà Sơn như đã hứa, vì phải rời Việt Nam ngày hôm sau. Tôi rời Sài Gòn ngày mùng 1 tháng giêng năm 2000. Thế giới đang bước sang một thế kỷ mới. Tôi gọi điện thoại chào Sơn. Anh hỏi: Cậu đi ngày đầu năm 2000, không sợ ‘“sự cố” à? Tôi nói sự cố nó sợ tôi chứ tôi sợ gì nó. Hồi ấy, ở Sài Gòn, người ta kỵ đi máy bay ngày đầu năm 2000. Sơn nói, giọng buồn: Nếu gặp lại X, Y cho mình gởi lời hỏi thăm; chắc mình không có dịp gặp lại anh em nữa. Ôi chinh chiến đã mang đi bạn bè. Ngựa hồng đã mỏi vó chết trên đồi quê hương.
Mỗi lần nghe nhạc TCS, tôi nghĩ đến cái cô đơn cùng tận của người nhạc sĩ ngồi trước cái bàn nhỏ ngoài sân, mỉm cười với người này người kia, nhưng đầu óc ở một nơi khác. Sơn ngồi đó, cô độc. Một mình tôi về với tôi. Đem cái cô đơn của kiếp người nhân lên gấp mười, bạn có cái cô đơn của người nghệ sĩ, nhân lên trăm lần có cái cô đơn của người nghệ sĩ Việt Nam, nhân lên ngàn lần có cái cô đơn của TCS. Cái cô đơn của một người suốt đời ca ngợi tình yêu, tình đồng bào, ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau, mà cuối cùng bị chỉ trích từ mọi phía. Sơn ngồi đó, nâng niu cô đơn từng ngày… mà đời còn nhiều đắng cay (Vũ Thành An). Sơn ngồi đó, một mình, giữa nhiều người:
Đời sao im vắng/ Như đồng lúa gặt xong/ Như rừng núi bỏ hoang/ Người về soi bóng mình/  Giữa tường trắng lạnh câm.     
Cái sân chỗ Sơn ngồi đông người qua lại, và ngoài đường xe hơi, xe gắn máy chạy loạn xà ngầu, nhưng Sơn ngồi đó, giữa tường trắng lạnh câm.
anh đã đến, đã vui chơi…
Trịnh Công Sơn ra đi ngày 1 tháng tư 2001, hưởng thọ 62 tuổi. Sáu mươi hai tuổi, đời người như gió qua. Ở bên Pháp, ngày 1 tháng tư là ngày “cá tháng Tư” (poissons d’Avril), ngày người ta đùa nhau bằng những chuyện hoàn toàn bịa đặt. Báo cho một ông nhà văn hạng bét là ông ta vừa chiếm giải Goncourt. Thú với cô fiancée là đã có vợ với ba con, rồi sau đó cho hay đó chỉ là những cá tháng Tư, những chuyện đùa chơi. TCS ra đi thật hay chỉ thả một con “cá tháng Tư”?
Sơn đã đến, đã vui chơi trong cuộc đời này. Bây giờ có lẽ anh đang bay cao trong bầu trời này. Nhưng, nhiều lúc, tôi tự hỏi có quả thật anh đã vui chơi trong cuộc đời này. Có bao nhiêu người Việt nam đã thực sự vui chơi trong cuộc đời này?

(Paris, tháng 3/2011)

[1] Xin lưu ý: Những tên tác giả trong bài viết này viết theo tiếng Pháp /  [2] C’est la beauté qui va sauver le monde. Fiodor Dostoïevski, trích từ tiểu thuyết L’Idiot [3] Charles Trenet (1913-2001), ca-nhạc sĩ Pháp / [4] Longtemps, longtemps, longtemps /Après que les poètes ont disparu /Leurs chansons courent encore dans les rues…[5] Tư tưởng Phương Đông / Cao Xuân Huy.  Nhà xuất bản Văn Học, Hanoi, 1995 / [6] Le plus difficile c’était la fin du mois, surtout les trente derniers jours. Coluche, biệt danh của Michel Colucci (1944-1986), một nghệ sĩ Pháp, nổi tiếng vì tài dí dỏm[7]. Trịnh Cung, Phan Thanh Tâm. Thế kỷ 21, May 2001 /  [8] Đất Mới, Saigon, 1966/  [9] On ne vit pas que du pain/l’être humain ne vit pas seulement de pain (từ Thánh Kinh)

Phạm Duy nói về Trịnh Công Sơn



(Ðọc trong đêm họp mặt của bạn bè, 3 April 2001, tại Quận Cam trong khi Saigon đang làm lễ an táng TCS.)
Từ 1975 cho tới năm 2000, suốt 25 năm xa quê hương đất nước, tôi không có cơ hội để theo dõi sinh hoạt của âm nhạc Việt Nam và không biết sau cơn hồng thủy, nhạc Trịnh Công Sơn ra sao, là nhạc chắp cánh bay lên hay nhạc la đà chìm xuống? Nhưng qua dăm bảy băng nhạc sản xuất tại Hoa Kỳ trong đó có vài ba bài ca mới soạn của Trịnh Công Sơn thì tôi thấy nhạc của anh vẫn là nhạc tình yêu và nhạc thân phận làm người.
Nhưng vào năm 1980, ngẫu nhiên Trịnh Công Sơn và tôi cùng có mặt ở Paris, trong nỗi vui mừng gặp nhau của hai người cùng có chung một phận, Trịnh Công Sơn hát cho tôi nghe bài hát “Lặng Lẽ Nơi Này” mà anh vừa mới viết ra:
Trời cao đất rộng,
Một mình tôi đi
Một mình tôi đi
Ðời như vô tận,
Một mình tôi về
Một mình tôi về… với tôi!

… thì tôi thấy nghệ sĩ nào rồi cũng phải mang số phận cô đơn truyền kiếp, ở quê hương hay xa quê hương, vào thời bình hay chinh chiến, giữa đám đông hay khoảng trống, nơi thiên đàng hay địa ngục… Chỉ còn có thể về với mình, “về với tôi” như Sơn đã nói.
“Trời cao đất rộng, một mình tôi đi…”. Cô đơn truyền kiếp phải chăng là kiếp của nhiều ca nhân? Văn Cao khi mới chỉ là chàng Trương Chi tuổi còn rất xanh, tài hoa đang nở rực, chưa hề biết phận mình mỏng manh ra sao trong cơn gió lốc sẽ tới, mà cũng đã chỉ muốn “Ngồi đây ta gõ mạn thuyền. Ta ca, trái đất còn riêng ta!”.
Còn tôi? Tôi còn phải sống, đôi khi phải đổi chỗ đứng, đổi chỗ ngồi cho đỡ buồn trong cõi trần ai sầu muộn này, từ rất lâu ngồi đâu thì cũng chỉ là ngồi một mình trong cái TA.
Hôm nay là ngày an táng Trịnh Công Sơn. Vào giờ phút anh đã thực sự về với đất, với trời, nghĩa là về với mình rồi, chúng tôi biết rằng anh đã nghìn lần nói lên nghìn lời trối trăn qua tác phẩm, lời nào cũng làm cho mọi người thấy được nỗi đau làm người, nỗi đau tình cờ, cơn đau chưa dài và cơn đau lên đầy, quá nửa đời người không một ngày vui…
Nhưng theo tôi, có lẽ sau đây là lời trăn trối tuyệt diệu nhất, lời cuối cùng Trịnh Công Sơn nói với Trịnh Công Sơn:
Ðừng tuyệt vọng,
tôi ơi đừng tuyệt vọng,
Lá mùa Thu rơi rụng
giữa mùa Ðông
Ðừng tuyệt vọng,
em ơi đừng tuyệt vọng
Em là tôi và tôi cũng là em.
Con diều bay
mà linh hồn lạnh lẽo
Con diều rơi
cho vực thẳm buồn theo
Tôi là ai mà còn ghi dấu lệ?
Tôi là ai mà còn trần gian thế!
Tôi là ai, là ai… là ai
Mà yêu quá đời này! “


Thơ
(i) Bùi Giáng
Trịnh Công Sơn

Anh Sơn vô tận bấy chầy 
Tôi từ lẽo đẽo tháng ngày trải qua 
Niềm thống khổ đứt ruột rà 
Còn chăng? ấy chỉ một là là chi?


(ii) Trịnh Công Sơn
Điếu Bùi Giáng

Bùi Giáng Bàng Dúi Búi Giàng 
Ô hay trăm ngõ bàng hoàng lỗ không 
Lỗ không trời đất ngỡ ngàng 
Hóa ra thi thể là ngàn hư vô 
.... Nhớ thương vô cùng là từ 
Là từ vô hạn ứ ừ viển vông.

-------------------
* nguồn: internet




Thứ Ba, 29 tháng 1, 2013

trần hoàng vy * chùm thơ




tin nhắn của... nẫu!

Nẫu… ba mươi năm chưa gặp
Không biết bây chừ ra sao?
Tình cờ dạo chơi Facebook
Gặp nẫu nên… nhảy vô chào!

Nẫu ạ, lâu à… chuyện xưa
Thuở vừa mới lớn… mắc mưa
Hai tay che vạt áo ướt
Giấu điều… khó nói dạ thưa?

Ta giờ chồn chân gối mỏi
Công hầu, khanh tướng… chiêm bao
Những ngày… lên bờ xuống bụi
Thơ buồn lận đận xanh xao

Nẫu chừ cô giáo mới hưu
Rửa tay bụi phấn quê nhà
Lại làm… Ôsin giữ cháu
Ru buồn mòn lẳng bài ca!

Ta hề, phương Nam hành thân
Loanh quanh hoài nơi phố xá
Nhiều khi muốn tung hê cả
Lại e thể diện… phong trần?

Người xưa võng lọng về quê
Ta mấy chục năm xa xứ
Nhớ ngày ra ga, mưa níu
Bây chừ lấy cái chi về?

Tin nhắn nẫu toàn không dấu
Đọc mà như xót… cỏ may
Thuở xưa bờ sông lộng gió
Gở hoài, ửng đỏ ngón tay!

Tự nhiên chợt muốn cancel
Tin nhắn save nỗi nhớ
Nẫu, ta bây chừ đã lỡ
Xế chiều mây trắng lô xô…


 màu xưa

Màu xưa má phượng đoan trang
Màu mù sương sớm, thoắt vàng nắng trưa
Màu xưa màu của giọt mưa
Mấy năm cuối cấp màu chưa kịp buồn!

Kể từ xuống biển lên nguồn
Màu xưa hư ảo “mống chuồn” lung liêng
Vắt ngang hồn nỗi niềm riêng
Bàn chân lỡ bước lạc miền… màu xưa


 chợ nổi xuân bềnh bồng

Tôi dập dềnh trôi trên chợ nổi
Em bập bềnh. Em như cây bẹo
Tô bún mắm khói bay thơm lừng
Tòong teng hoài nải chuối héo?

Mùa xuân khi nào sắc thuyền ghe
Vạn thọ vàng khúc sông che
Rất nhiều hoa trái chất ngồn ngộn
Chọn mùa xuân… ngọt như chè!

Thôi đứng lai rai vài ly rượu
Nghe nước dưới chân chuyển dịch mùa
Nghe mình bềnh bồng say xuân… sắc
Đứng ghe này, réo gọi thuyền kia?

Chợ nổi chọn mua gì xuân nổi
Bốn mùa góp vốn một thuyền xuân
Nhấp nhô rượu sóng bềnh bồng nước
Chợt thấy ngày đi Tết thật gần…

----------------
* nguồn: tác gigửi


Chủ Nhật, 20 tháng 1, 2013

y ban gửi thư ngỏ phản đối cuộc chơi kiểu lợi ích nhóm ở Hội Nhà văn VN




Mùa giải 2011 ban chung khảo là tất cả các ủy viên BCH. Các ủy viên BCH nào có sách dự giải sẽ không tham gia bỏ phiếu. Bỏ phiếu lần 1 các cuốn sách của các ủy viên BCH không quá bán. Ông chủ tich Hội chỉ đạo bỏ phiếu lần 2. Vỗ tay hoan hô, 3 ủy viên đoạt giải. Cái cách này thì ông chủ tịch quá thạo, vô cùng thạo, nó y chang việc ông chỉ đạo bỏ phiếu thử trong cuộc bỏ phiếu  Giải thưởng Hồ Chí Minh và Nhà nước, kết quả không như thật thì lại thử tiếp, đến khi thật thì thôi. Năm nay thành viên BGK rút xuống còn có 9 người. Và ông chủ tịch lại tung chiêu mới. Thay vì bỏ phiếu cùng với bỏ phiếu hội viên mới nhưng ông đã lùi lại, vì búa rìu dư luận đang mạnh. Để khi dư luận tạm lắng mới bỏ phiếu. Hoan hô, vỗ tay, Đúng, Trúng, Đủ rồi nhé. Tiền của Hội không nhiều, chỉ đủ đáp ứng những cách lách của ông chủ tịch. Xin bái phục ông. Dư luận đối với ông chỉ như muỗi đốt gỗ...


THƯ NGỎ CỦA Y BAN GỬI BAN CHẤP HÀNH HỘI NHÀ VĂN VN

Kính gửi ông chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam và 14 vị ủy viên BCH

Kính thưa các quí vị. Tên tôi là Y Ban, hội viên Hội nhà văn VN. Tôi viết thư này để bày tỏ với các quí vị một việc như sau: Ơn giời và nhờ sự mưa móc của các vị mà tôi được ngồi ở cái ghế ủy viên hội đồng văn xuôi. Đã trải qua hai mùa xét giải và kết nạp hội viên tôi đã nhận ra rằng, việc tôi ngồi ở hội đồng không thể đem lại lợi ích nào cho các nhà văn, cho người viết. Tôi chỉ đang bị biến thành một con rối trong tay những kẻ vụ lợi, bè phái và dối trá. Khi bức thư này đến tay các quí vị cũng có nghĩa rằng tôi chính thức chối bỏ cái ghế ủy viên hội đồng văn xuôi.

Tôi là một nhà văn. Tôi viết ra những tác phẩm. Tôi phải trung thực với chính bản thân mình, với từng còn chữ của mình. Tôi biết khi lá thư này đến tay các vị thì sẽ dấy lên một cơn sóng dư luận. Các vị sẽ tha hồ phán xét tôi. Xin vui lòng, các vị cứ làm theo lương tâm. Tôi đã trải qua những cơn sóng như vậy. Tôi có bản lĩnh để chịu đựng. Tôi chỉ cần nói lên một sự thật. Nhiều người đã chọn cách im lặng. Đó là cách khôn ngoan. Tôi chọn con đường dại. Thực ra tôi đã chọn con đường dại này khi tôi bước vào văn chương. Nhưng có một cách nghĩ khác. Nếu chúng ta đều chọn sự im lặng, chúng ta có như bầy cừu kia, lặng lẽ ăn cỏ, lặng lẽ để người ta cắt lông và lặng lẽ để người ta lùa vào lò mổ? Tôi là một con cừu hay đi chệch hướng.
Tôi đã trải qua hai mùa giải thưởng. Mùa giải năm 2011 những tác phẩm tôi thích, tôi bỏ phiếu thì không đoạt giải. Mùa giải năm 2012 tôi có tác phẩm dự thi. Ngày bỏ phiếu tôi cũng được triệu tập đến. Có 5 thành viên hội đồng có mặt. Nhà văn  Bão Vũ có bản nhận xét và bỏ phiếu qua email. Nhà văn Thái Bá Lợi xin bỏ sau. Nhà Văn Trần Văn Tuấn bỏ phiếu qua điện thoại. Chị Tuyên nghe điện thoại nói lại, anh Tuấn bảo anh ấy bỏ tất cho mọi người vì..chưa kịp đọc. Nhà văn Nguyễn Khắc Trường cầm điện thoại nói với nhà văn Trần Văn Tuấn: Không bỏ thế được đâu. Ông đọc ai rồi thì bỏ. Nhà văn Trần Văn Tuấn bỏ một phiếu duy nhất cho Thành phố đi vắng. 5 nhà văn còn lại được mời vào phòng kín hợp với phó chủ tịch Nguyễn Quang Thiều. Tôi lại được chỉ định là thư ký. Bỗng nhiên chị Tuyên đưa một tờ giấy ra đọc, qui chế..tôi có tác phẩm dự thi thì không được bỏ phiếu. Tôi đứng dậy ra về. Có nhà văn ái ngại hộ tôi bảo, thôi cứ ngồi nghe cũng được. 
Thú thật là tôi cũng muốn ngồi nghe xem mọi người nhận xét về mình thế nào nhưng lại nghĩ thế là làm khó mọi người. Mấy năm trước khi chưa ngồi ở hội đồng tôi có cuốn Hành trình tờ tiền giả cũng được hội đồng đưa vào bỏ phiếu. Có một ủy viên rất khen cuốn đó, thế nhưng khi bỏ phiểu thì nó chỉ được một số không tròn trịa. Kết quả cuối cùng có 4 cuốn lọt vào chung khảo: Thành phố đi vắng 6/7 phiếu. Một thế kỉ bị mất 6/7 phiếu. Trò chơi hủy diệt cảm xúc 5/7 phiếu và  Sông núi nước Nam được đề nghị bằng khen.
Mùa giải 2011 ban chung khảo là tất cả các ủy viên BCH. Các ủy viên BCH nào có sách dự giải sẽ không tham gia bỏ phiếu. Bỏ phiếu lần 1 các cuốn sách của các ủy viên BCH không quá bán. Ông chủ tich Hội chỉ đạo bỏ phiếu lần 2. Vỗ tay hoan hô, 3 ủy viên đoạt giải. Cái cách này thì ông chủ tịch quá thạo, vô cùng thạo, nó y chang việc ông chỉ đạo bỏ phiếu thử trong cuộc bỏ phiếu  Giải thưởng Hồ Chí Minh và Nhà nước, kết quả không như thật thì lại thử tiếp, đến khi thật thì thôi. Năm nay thành viên BGK rút xuống còn có 9 người. Và ông chủ tịch lại tung chiêu mới. Thay vì bỏ phiếu cùng với bỏ phiếu hội viên mới nhưng ông đã lùi lại, vì búa rìu dư luận đang mạnh. Để khi dư luận tạm lắng mới bỏ phiếu. Hoan hô, vỗ tay, Đúng, Trúng, Đủ rồi nhé. Tiền của Hội không nhiều, chỉ đủ đáp ứng những cách lách của ông chủ tịch. Xin bái phục ông. Dư luận đối với ông chỉ như muỗi đốt gỗ.

Trò chơi hủy diệt cảm xúc được 4 phiếu giải thưởng, 3 phiếu bằng khen và 2 phiếu trắng. Đây chính là mấu chốt của vấn để. Nếu tôi sáng suốt, nếu tôi không đi trên con đường dại thì ngay từ đầu tôi phải từ chối BGK này. Họ không đủ Tâm, đủ Tầm để bỏ phiếu cho tác phẩm. Họ chỉ đủ Tâm, đủ Tầm để bỏ phiếu cho tên tác giả. Hai phiếu trắng ở đây nói lên điều gì?  Làm giám khảo mà không dám đối mặt với chỉ một cái tên trên một tờ giấy? Vậy tại sao họ vẫn thích ngồi ở ghế BGK? Tiền ư? Không nhiều đâu. Mùa giải 2011 hội đồng văn xuôi đọc hơn 200 cuốn, tiền thù lao là 12 triệu đồng, trừ 1.2 triệu tiền thuế. Năm nay chưa nhận. Mùa kết nạp năm 2011 danh sách hội đồng văn xuôi đưa lên BCH, kiểm lại thấy thiếu một người, hội đồng phải bỏ thêm. Mùa kết nạp năm nay hội đồng thơ cũng phải làm điều tương tự. Vậy họ vì cái gì? Vì oai. Họ có quyền mưa móc và phán xét. Có thể tôi nhầm. Có thể được nhiều thứ nữa, không chỉ là oai. Vì họ đã phải đùng đến mọi thủ đoạn mánh lới, thậm chí tận diệt.

Tôi từ chối không nhận bằng khen. Điều đó đồng nghĩa với việc tôi không thừa nhận BGK này. Tại sao tôi lại phải chấp nhận một BGK không đủ Tâm đủ Tầm đủ Tài? Với một lý lẽ thông thường: Dám làm dám chịu các vị cũng không dám? Mà lại thích mưa móc ban ơn.

Lợi ích nhóm. Cụm từ tưởng rất xa lạ trong văn chương. Nhưng không ngờ nó lại gần gũi đến vậy. Và tôi đã nhìn thấy nó đang trói buộc các vị. Một câu cửa miệng của các vị, nghe rất buồn cười, tôi có muốn làm đâu, anh ấy cứ bắt tôi làm. Giời ạ, thế hệ chúng tôi đang còn sung sức đây để chúng tôi làm cho. Anh ấy ơi để chúng tôi làm cho. Chờ đấy, cái thế hệ gạch nối chúng mày. Cứ viết đi, cứ phấn đấu đi, cứ tâm huyết đi, cứ đổi mới đi…Trong các báo cáo thành tích chúng anh khen chúng mày lên tận mây xanh nhưng thực tế bọn chúng anh đè cho không ngóc đầu lên được đâu. Đừng có ti toe..Không, tôi không ti toe. Tôi chối từ.
Khi tôi chọn con đường dại này tôi cũng đã chọn một hội nghề nghiệp để tựa lưng. Tôi đã vun xới cho những hi vọng của mình. Tôi cũng vun xới cho hội nghề nghiệp tôi đã chọn. Bằng những tác phẩm của mình tôi cũng đã làm rạng danh cho hội nghề nghiệp. Bằng chứng ư? Trong những bản báo cáo thành tích của hội cái tên Y Ban thường được xướng lên. Nhưng cuộc vui thì ngắn, nỗi buồn thì dài. Hai tác phẩm của tôi là I Am Đàn bà (2007) và Này hỏi thật thấy gì chưa đấy( 2011) bị thu hồi, truyện ngắn I Am Đàn bà bị rút giải, hội nghề nghiệp phủi tay đứng ngoài cuộc. Lúc tôi cũng thương thân mà khóc. Sau nghĩ lại sự phủi tay đứng ngoài cuộc đó lại là một sự may mắn cho tôi. Trong quá khứ đã chẳng có những đòn của đồng nghiệp mà chết hắn một đời người, một đời văn đó sao?

Khi tôi viết thư ngỏ này, tôi bỗng nhớ đến câu chuyện trong lúc trà dư tửu hậu, một vị trong BCH kể rằng, ông chủ tịch có lần đã nói đại ý, để xem thế hệ trẻ họ đối xử với nhau thế nào? Tôi giật mình đến thột. Trẻ đấy, mà thực ra có trẻ nữa đâu, đều trên dưới 50 cả rồi, thọi nhau đi, để chúng anh vỗ tay. Lại một lần nữa tôi xin bái phục ông chủ tịch. Ông thánh thật. May tôi đứng gần, nhìn rõ. Tôi vẫy cờ trắng. Tôi xin đầu hàng. Tôi xin bày tỏ sự nể phục ông một lần nữa. Thế hệ ông, ông đã lo cho tròn. Mỗi người được một góc bánh. Để lo được sự tròn trịa đó ông cũng đã nếm chịu sự khốn nạn. Mà sao ông tài chịu đựng.

Tôi vẫn có niềm tin và hi vọng, rằng một ngày kia hội nghề nghiệp sẽ thực sự nơi tựa lưng cho những người cầm bút. Chắc phải chờ cho đến khi miếng bánh đã được chia hết. Nhưng để có sự tin tưởng đó thì hiện tại tôi phải nên tránh xa cái sự Dối Trá lộng lẫy huy hoàng trơn lì bóng nhẫy trường kỳ lưu cữu này.

Cuối cùng tôi xin chúc các Vị sức khỏe an khang, bách niên giai lão, sống lâu trăm tuổi để tiếp tục dẫn dắt nền văn học Việt Nam.

Hà Nội ngày 18.1.2013.
Y BAN

---------------
* nguồn: lethieunhon



nữ văn sĩ "chê" bằng khen: ban giám khảo hãy phản biện lại tôi đi!




Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam còn lâu mới có giá trị (về mặt vật chất) như giải “Bài hát yêu thích” đang phát sóng trên truyền hình. Nhưng không vì “hẻo tiền” mà xuôi chèo mát mái.
Ngày 18/1, nữ nhà văn Y Ban đã tung ra “Thư ngỏ” gửi một số hộp thư của người trong giới, bày tỏ bức xúc về sự “thiếu tâm, thiếu tầm” của những người cầm cân nảy mực ở một hội danh giá.

Vì sao trong thư ngỏ chị lại viết, Ban Giám khảo không có tâm, không có tầm? Đặt câu hỏi ngược lại, thế hệ như chị, trẻ trung hơn, nếu hoán đổi vị trí, chị có dám tin mình sẽ có tâm, có tầm không?

Cái tâm, cái tầm (cũng thật khó nói), nhất là văn chương, mỗi người mỗi ý, mà nhà văn, không phải ai sinh ra cũng có “khiếu” làm giám khảo. Cho nên cái tâm, cái tầm với tôi là dám đương đầu, dám thách thức.
Bây giờ tôi muốn ban giám khảo (gồm 9 người) phản biện lại tôi đi, họ hãy nói lại với tôi (mà không phải với tôi nữa, tôi khép lại rồi) họ nói lại với tất cả bạn đọc, tất cả những người đang theo dõi việc này là chúng tôi đủ tâm, đủ tầm, đủ tài.
Họ phải phản bác lại, phải phân tích từng tác phẩm hay ở đâu, dở ở đâu. Ngồi ghế giám khảo có nhà lí luận phê bình Phan Trọng Thưởng, Lê Quang Trang, rồi các nhà văn nhà thơ, toàn gạo cội cả đó chứ.
Họ phải lí giải vì sao tác phẩm cô này tôi chỉ cho thế thôi, vì sao tôi để phiếu trắng. Mọi người phải phân tích được, cái tâm, cái tầm, cái minh bạch là ở chỗ đó.
Quan trọng là dám đương đầu, xin mời các vị hãy lên tiếng đi, hãy phản biện là Y Ban sai đi. Tôi chỉ mong tôi sai. Rất mong tôi sai.

Vì sao chị lại chọn hình thức thư ngỏ?

Tôi không muốn để ảnh hưởng tới ai nhưng tôi đã chọn thư ngỏ, tôi chọn những mạng để tôi đưa lên, nghĩa là tôi muốn để mọi người biết vấn đề này. Nó không phải chuyện nội bộ của Hội nhà văn nữa, không phải cá nhân tôi, mà là của mọi người.
Tôi nghĩ không phải vào Hội để oai, để sang, để chia nhau miếng bánh. Có người hàng chục năm, hai chục năm không viết gì mà vẫn sống trong vinh quang, trong sự tung hô, tung hô đi tung hô lại.
Trong khi đó những người khác vẫn miệt mài viết, tìm tòi, đổi mới thì lại bị thờ ơ. Đó là thực trạng ở Hội.
Về sự cố này, điện thoại cho Nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, ông cười bình tĩnh. Vị Chủ tịch cho biết, đã đọc thư ngỏ của Y Ban nhưng ông đang ở quê nên chưa tiện trả lời.

Vậy theo chị dựa vào đâu để định giá sự đổi mới ở một cây bút? Vì văn chương như chị nói, thật khó cân đong đo đếm?

Bằng nhiều nguồn. Cả một đội ngũ lí luận phê bình, rồi dư luận bạn đọc, rồi chính những người làm báo chí nữa. Chúng ta nhìn sang nước Mỹ xem, có hẳn tờ New York Times, tác phẩm nào lọt vào đây là tác phẩm danh giá.
Nhưng thêm điều nữa tôi nói để bạn biết, các nhà lí luận của ta không kém đâu, cũng được đào tạo đàng hoàng bài bản, cũng sắc sảo vô cùng nhưng vấn đề là người ta không đọc, không cập nhật, không chịu được xu hướng mới. Người ta cho phép mình như thế.

Chị định nói họ già, họ chậm tiến?

Không, tôi không nói họ già.

Nhưng người không tiếp nhận cái mới ắt là người già?

(Cười) Đó là ý bạn. Tôi không dám bảo họ già, họ trẻ trung vô cùng. Bởi vì đến 70 tuổi, họ vẫn cứ ngồi ghế nọ, ghế kia.

Đã là hội nghề nghiệp kể chi tuổi tác?

Đúng rồi. Nhưng họ phải tự biết mình.

Chị viết: “Khi bức thư này tới tay các quý vị cũng có nghĩa rằng tôi chính thức chối bỏ cái ghế uỷ viên hội đồng văn xuôi”. “Cái ghế này” mang lại cho chị những gì từ khi ngồi vào?

Tôi nói rồi, nó chả mang lại gì cả. Tôi đã nói hết trong thư ngỏ rồi, bạn cứ trích ra.

Chị mô tả hoạt động của Hội đồng văn xuôi khá “hồn nhiên”, thậm chí có người trong Hội đồng chẳng đọc mấy. Chị nghĩ gì về quy trình chấm giải văn chương bấy lâu nay?

Chả có quy trình gì hết. Người ta muốn làm thế nào thì làm. Nay họ làm thế này, mai họ làm thế khác. Quy trình trong tay một ông đứng đầu.

Phiếu trắng cũng là một ý kiến nhưng vì sao chị phản đối? Hay chị cho rằng người bỏ phiếu trắng chưa đọc tác phẩm của chị?

Tôi phản ứng cái này vì họ không dám đối diện với lương tâm của họ. Tại sao không sổ toẹt rằng, không hay, không ra gì.
ban chung khảo chưa phải nơi quyết định cuối cùng

Được biết, Quy trình xét giải thưởng hàng năm của BCH Hội Nhà văn Việt Nam khóa VIII như sau: Các Hội đồng chuyên môn (Văn xuôi, Thơ, Lý luận phê bình, Văn học dịch), rà soát và đọc những tác phẩm đúng quy định xét giải do nhiều nguồn giới thiệu lên. Những tác phẩm nào Hội đồng đồng ý đề nghị xét giải và xét Bằng khen được gửi lên Ban chung khảo (thường được gọi là Ban giám khảo). Ban chung khảo có thể là tất cả các Ủy viên BCH, cũng có thể là một số ủy viên BCH do BCH cử ra. Được biết, xét giải năm 2012, Ban chung khảo có 9 ủy viên BCH (trong tổng số 15 ủy viên BCH).


Các Hội đồng chuyên môn (tương tự hội đồng sơ khảo) chỉ tham mưu cho BCH những tác phẩm mà họ thấy xứng đáng để trình lên Ban chung khảo. Kết quả Ban này đưa ra vẫn chưa phải là cuối cùng. Theo điều lệ Hội, việc xét giải thưởng, trao giải thưởng và tặng bằng khen hàng năm cho các tác phẩm xứng đáng là quyền hạn của BCH. Như vậy, kết quả giải thưởng văn chương 2012 sẽ được chính thức quyết định trong thời gian tới.

Chị nói, không chấp nhận Ban giám khảo này. Tại sao điều đó không diễn ra sớm hơn, đến bây giờ khi không ẵm giải lớn, chị mới không chấp nhận?

Câu đó nên hỏi người khác. Nếu tôi không dấn thân như thế, không trải nghiệm như thế thì làm sao tôi biết thâm cung bí sử?

Chỉ trích họ ham chiếm ghế nhưng trong thư ngỏ chị lại “chúc các vị sức khoẻ, an khang, bách niên giai lão”?

Họ cố thủ như thế thì mình chúc họ như vậy. Họ không bao giờ chịu nhả ra đâu. Đại hội nhà văn nào cũng có những câu vè rất hay (cười). Đấy. Nhưng họ vẫn thích vô cùng quyền lực, họ vẫn ngồi.
 Tha hồ phán xét tôi đi. Tôi tự nhận tôi đi trên con đường dại và tôi ham hố. Vì ham hố nên tôi vẫn còn đi dự giải, tôi vẫn còn hy vọng những điều tốt đẹp.

Thế nghĩa là, nếu Y Ban đoạt giải chắc chắn không có thư ngỏ?

Đúng, chuẩn luôn. Đúng quá. Bởi vì Y Ban mà đoạt giải thì quá đỗi bình thường.
“Văn minh, vợ người”, thật chẳng sai chút nào!
Người viết nào chẳng tự tin. Nếu mọi người công tâm với Y Ban sẽ thấy cuốn sách nào của Y Ban cũng đổi mới. Chúng ta tranh luận trên cuốn này (Trò chơi huỷ diệt cảm xúc - chính là cuốn xét giải năm nay - PV) tôi tự tin để nói điều ấy. Hẳn một lối viết khác. Mỗi chương của tôi gần như một truyện ngắn sống độc lâp được. Câu chữ của tôi có nhịp điệu nói lên toàn bộ thời chúng ta đang sống. Văn chương của tôi có sự gắn kết, văn của tôi có lửa. Mọi người đã đọc cuốn sách của tôi, mọi người sẽ không bỏ ra được. Một điều nữa khiến tôi tự tin là dư luận bạn đọc. Tôi tôn trọng bạn đọc.

Chị có hối tiếc vì đã vào Hội không?

Không. Tôi không hề hối tiếc. Tôi tự hào là tôi đã chọn Hội Nhà văn Việt Nam, cho đến bây giờ tôi vẫn tôn trọng nó. Tôi tự hào tôi là người tử tế, ăn cây nào rào cây ấy. Tôi chọn con đường dại của tôi. Nếu tôi ra khỏi Hội tôi vẫn là Y Ban. Ở trong Hội tôi vẫn là Y Ban. Tôi có thêm một giải thưởng nữa, vẫn là Y Ban. Tôi có bớt đi một giải thưởng, vẫn là Y Ban.

Chị có lo cơn sóng chị tạo ra không nhấn chìm ai, lại nhấn chìm chính chị?

Ôi không. Không nhấn chìm được tôi đâu. Bởi vì tôi là nhà văn, mọi điều tôi trải qua, sẽ vào tác phẩm của tôi. Tôi nói cho bạn nghe búa rìu dư luận của "I am đàn bà" ghê lắm mà tôi vẫn chịu được.

---------------------------
Theo Lê Anh Hoài - Hồng Diệu
Tiền Phong

***


Về sự cố này, điện thoại cho Nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, ông cười bình tĩnh. Vị Chủ tịch cho biết, đã đọc thư ngỏ của Y Ban nhưng ông đang ở quê nên chưa tiện trả lời.
  


ban chung khảo chưa phải nơi quyết định cuối cùng

Được biết, Quy trình xét giải thưởng hàng năm của BCH Hội Nhà văn Việt Nam khóa VIII như sau: Các Hội đồng chuyên môn (Văn xuôi, Thơ, Lý luận phê bình, Văn học dịch), rà soát và đọc những tác phẩm đúng quy định xét giải do nhiều nguồn giới thiệu lên. Những tác phẩm nào Hội đồng đồng ý đề nghị xét giải và xét Bằng khen được gửi lên Ban chung khảo (thường được gọi là Ban giám khảo). Ban chung khảo có thể là tất cả các Ủy viên BCH, cũng có thể là một số ủy viên BCH do BCH cử ra. Được biết, xét giải năm 2012, Ban chung khảo có 9 ủy viên BCH (trong tổng số 15 ủy viên BCH).

Các Hội đồng chuyên môn (tương tự hội đồng sơ khảo) chỉ tham mưu cho BCH những tác phẩm mà họ thấy xứng đáng để trình lên Ban chung khảo. Kết quả Ban này đưa ra vẫn chưa phải là cuối cùng. Theo điều lệ Hội, việc xét giải thưởng, trao giải thưởng và tặng bằng khen hàng năm cho các tác phẩm xứng đáng là quyền hạn của BCH. Như vậy, kết quả giải thưởng văn chương 2012 sẽ được chính thức quyết định trong thời gian tới.



thêm một nhà văn từ chối tặng thưởng


Chiều tối hôm qua (19/1), thêm một bức thư ngỏ của một nhà văn được “chấm” hạng Bằng khen được tung lên mạng. Đó là nhà văn Phạm Ngọc Cảnh Nam. Khác với nhà văn Y Ban, nhà văn Phạm Ngọc Cảnh Nam kiệm lời hơn, ông viết:


Thư ngỏ gửi Hội Nhà Văn VN


Tôi Phạm Ngọc Cảnh Nam, người vừa được HNV VN công bố tặng bằng khen năm 2012 cho cuốn tiểu thuyết “Thế Kỷ Bị Mất” của tôi.

Tôi xin giành quyền được từ chối bằng khen nầy của HNV .

Lý do đơn giản, mà ai cũng thấy là giải thưởng đã không được xét đúng theo tiêu chí văn chương. Và, cũng là để cho sự trung thực còn có chỗ trú ngụ trong ngôi đền thiêng liêng của nó là Văn Học.

Phạm Ngọc Cảnh Nam”.



Theo tôi được biết, tiểu thuyết “Thế Kỷ Bị Mất” của nhà văn Phạm Ngọc Cảnh Nam được hội đồng văn xuôi đánh giá rất cao, với 6/7 phiếu (Một người không bỏ phiếu vì chưa đọc) cuốn tiểu thuyết được xếp đầu bảng giải văn xuôi năm nay. Nhà văn Nguyễn Khắc Trường đã phải thốt lên: “Lâu lắm rồi mới đọc được cuốn sách hay như thế này”. Thế nhưng lên BCH, cuốn sách đã bị đánh tuột khỏi giải chính thức, chỉ được cái bằng khen.

Thực ra các nhà văn nước ta đều có con mắt xanh, bảo họ ngu là không đúng. Nhưng khi bình xét giải thưởng họ không dám dùng con mắt xanh trời cho.

Nhà văn Nguyễn Quang Lập