Thứ Ba, 29 tháng 1, 2013

trần hoàng vy * chùm thơ




tin nhắn của... nẫu!

Nẫu… ba mươi năm chưa gặp
Không biết bây chừ ra sao?
Tình cờ dạo chơi Facebook
Gặp nẫu nên… nhảy vô chào!

Nẫu ạ, lâu à… chuyện xưa
Thuở vừa mới lớn… mắc mưa
Hai tay che vạt áo ướt
Giấu điều… khó nói dạ thưa?

Ta giờ chồn chân gối mỏi
Công hầu, khanh tướng… chiêm bao
Những ngày… lên bờ xuống bụi
Thơ buồn lận đận xanh xao

Nẫu chừ cô giáo mới hưu
Rửa tay bụi phấn quê nhà
Lại làm… Ôsin giữ cháu
Ru buồn mòn lẳng bài ca!

Ta hề, phương Nam hành thân
Loanh quanh hoài nơi phố xá
Nhiều khi muốn tung hê cả
Lại e thể diện… phong trần?

Người xưa võng lọng về quê
Ta mấy chục năm xa xứ
Nhớ ngày ra ga, mưa níu
Bây chừ lấy cái chi về?

Tin nhắn nẫu toàn không dấu
Đọc mà như xót… cỏ may
Thuở xưa bờ sông lộng gió
Gở hoài, ửng đỏ ngón tay!

Tự nhiên chợt muốn cancel
Tin nhắn save nỗi nhớ
Nẫu, ta bây chừ đã lỡ
Xế chiều mây trắng lô xô…


 màu xưa

Màu xưa má phượng đoan trang
Màu mù sương sớm, thoắt vàng nắng trưa
Màu xưa màu của giọt mưa
Mấy năm cuối cấp màu chưa kịp buồn!

Kể từ xuống biển lên nguồn
Màu xưa hư ảo “mống chuồn” lung liêng
Vắt ngang hồn nỗi niềm riêng
Bàn chân lỡ bước lạc miền… màu xưa


 chợ nổi xuân bềnh bồng

Tôi dập dềnh trôi trên chợ nổi
Em bập bềnh. Em như cây bẹo
Tô bún mắm khói bay thơm lừng
Tòong teng hoài nải chuối héo?

Mùa xuân khi nào sắc thuyền ghe
Vạn thọ vàng khúc sông che
Rất nhiều hoa trái chất ngồn ngộn
Chọn mùa xuân… ngọt như chè!

Thôi đứng lai rai vài ly rượu
Nghe nước dưới chân chuyển dịch mùa
Nghe mình bềnh bồng say xuân… sắc
Đứng ghe này, réo gọi thuyền kia?

Chợ nổi chọn mua gì xuân nổi
Bốn mùa góp vốn một thuyền xuân
Nhấp nhô rượu sóng bềnh bồng nước
Chợt thấy ngày đi Tết thật gần…

----------------
* nguồn: tác gigửi


Chủ Nhật, 20 tháng 1, 2013

y ban gửi thư ngỏ phản đối cuộc chơi kiểu lợi ích nhóm ở Hội Nhà văn VN




Mùa giải 2011 ban chung khảo là tất cả các ủy viên BCH. Các ủy viên BCH nào có sách dự giải sẽ không tham gia bỏ phiếu. Bỏ phiếu lần 1 các cuốn sách của các ủy viên BCH không quá bán. Ông chủ tich Hội chỉ đạo bỏ phiếu lần 2. Vỗ tay hoan hô, 3 ủy viên đoạt giải. Cái cách này thì ông chủ tịch quá thạo, vô cùng thạo, nó y chang việc ông chỉ đạo bỏ phiếu thử trong cuộc bỏ phiếu  Giải thưởng Hồ Chí Minh và Nhà nước, kết quả không như thật thì lại thử tiếp, đến khi thật thì thôi. Năm nay thành viên BGK rút xuống còn có 9 người. Và ông chủ tịch lại tung chiêu mới. Thay vì bỏ phiếu cùng với bỏ phiếu hội viên mới nhưng ông đã lùi lại, vì búa rìu dư luận đang mạnh. Để khi dư luận tạm lắng mới bỏ phiếu. Hoan hô, vỗ tay, Đúng, Trúng, Đủ rồi nhé. Tiền của Hội không nhiều, chỉ đủ đáp ứng những cách lách của ông chủ tịch. Xin bái phục ông. Dư luận đối với ông chỉ như muỗi đốt gỗ...


THƯ NGỎ CỦA Y BAN GỬI BAN CHẤP HÀNH HỘI NHÀ VĂN VN

Kính gửi ông chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam và 14 vị ủy viên BCH

Kính thưa các quí vị. Tên tôi là Y Ban, hội viên Hội nhà văn VN. Tôi viết thư này để bày tỏ với các quí vị một việc như sau: Ơn giời và nhờ sự mưa móc của các vị mà tôi được ngồi ở cái ghế ủy viên hội đồng văn xuôi. Đã trải qua hai mùa xét giải và kết nạp hội viên tôi đã nhận ra rằng, việc tôi ngồi ở hội đồng không thể đem lại lợi ích nào cho các nhà văn, cho người viết. Tôi chỉ đang bị biến thành một con rối trong tay những kẻ vụ lợi, bè phái và dối trá. Khi bức thư này đến tay các quí vị cũng có nghĩa rằng tôi chính thức chối bỏ cái ghế ủy viên hội đồng văn xuôi.

Tôi là một nhà văn. Tôi viết ra những tác phẩm. Tôi phải trung thực với chính bản thân mình, với từng còn chữ của mình. Tôi biết khi lá thư này đến tay các vị thì sẽ dấy lên một cơn sóng dư luận. Các vị sẽ tha hồ phán xét tôi. Xin vui lòng, các vị cứ làm theo lương tâm. Tôi đã trải qua những cơn sóng như vậy. Tôi có bản lĩnh để chịu đựng. Tôi chỉ cần nói lên một sự thật. Nhiều người đã chọn cách im lặng. Đó là cách khôn ngoan. Tôi chọn con đường dại. Thực ra tôi đã chọn con đường dại này khi tôi bước vào văn chương. Nhưng có một cách nghĩ khác. Nếu chúng ta đều chọn sự im lặng, chúng ta có như bầy cừu kia, lặng lẽ ăn cỏ, lặng lẽ để người ta cắt lông và lặng lẽ để người ta lùa vào lò mổ? Tôi là một con cừu hay đi chệch hướng.
Tôi đã trải qua hai mùa giải thưởng. Mùa giải năm 2011 những tác phẩm tôi thích, tôi bỏ phiếu thì không đoạt giải. Mùa giải năm 2012 tôi có tác phẩm dự thi. Ngày bỏ phiếu tôi cũng được triệu tập đến. Có 5 thành viên hội đồng có mặt. Nhà văn  Bão Vũ có bản nhận xét và bỏ phiếu qua email. Nhà văn Thái Bá Lợi xin bỏ sau. Nhà Văn Trần Văn Tuấn bỏ phiếu qua điện thoại. Chị Tuyên nghe điện thoại nói lại, anh Tuấn bảo anh ấy bỏ tất cho mọi người vì..chưa kịp đọc. Nhà văn Nguyễn Khắc Trường cầm điện thoại nói với nhà văn Trần Văn Tuấn: Không bỏ thế được đâu. Ông đọc ai rồi thì bỏ. Nhà văn Trần Văn Tuấn bỏ một phiếu duy nhất cho Thành phố đi vắng. 5 nhà văn còn lại được mời vào phòng kín hợp với phó chủ tịch Nguyễn Quang Thiều. Tôi lại được chỉ định là thư ký. Bỗng nhiên chị Tuyên đưa một tờ giấy ra đọc, qui chế..tôi có tác phẩm dự thi thì không được bỏ phiếu. Tôi đứng dậy ra về. Có nhà văn ái ngại hộ tôi bảo, thôi cứ ngồi nghe cũng được. 
Thú thật là tôi cũng muốn ngồi nghe xem mọi người nhận xét về mình thế nào nhưng lại nghĩ thế là làm khó mọi người. Mấy năm trước khi chưa ngồi ở hội đồng tôi có cuốn Hành trình tờ tiền giả cũng được hội đồng đưa vào bỏ phiếu. Có một ủy viên rất khen cuốn đó, thế nhưng khi bỏ phiểu thì nó chỉ được một số không tròn trịa. Kết quả cuối cùng có 4 cuốn lọt vào chung khảo: Thành phố đi vắng 6/7 phiếu. Một thế kỉ bị mất 6/7 phiếu. Trò chơi hủy diệt cảm xúc 5/7 phiếu và  Sông núi nước Nam được đề nghị bằng khen.
Mùa giải 2011 ban chung khảo là tất cả các ủy viên BCH. Các ủy viên BCH nào có sách dự giải sẽ không tham gia bỏ phiếu. Bỏ phiếu lần 1 các cuốn sách của các ủy viên BCH không quá bán. Ông chủ tich Hội chỉ đạo bỏ phiếu lần 2. Vỗ tay hoan hô, 3 ủy viên đoạt giải. Cái cách này thì ông chủ tịch quá thạo, vô cùng thạo, nó y chang việc ông chỉ đạo bỏ phiếu thử trong cuộc bỏ phiếu  Giải thưởng Hồ Chí Minh và Nhà nước, kết quả không như thật thì lại thử tiếp, đến khi thật thì thôi. Năm nay thành viên BGK rút xuống còn có 9 người. Và ông chủ tịch lại tung chiêu mới. Thay vì bỏ phiếu cùng với bỏ phiếu hội viên mới nhưng ông đã lùi lại, vì búa rìu dư luận đang mạnh. Để khi dư luận tạm lắng mới bỏ phiếu. Hoan hô, vỗ tay, Đúng, Trúng, Đủ rồi nhé. Tiền của Hội không nhiều, chỉ đủ đáp ứng những cách lách của ông chủ tịch. Xin bái phục ông. Dư luận đối với ông chỉ như muỗi đốt gỗ.

Trò chơi hủy diệt cảm xúc được 4 phiếu giải thưởng, 3 phiếu bằng khen và 2 phiếu trắng. Đây chính là mấu chốt của vấn để. Nếu tôi sáng suốt, nếu tôi không đi trên con đường dại thì ngay từ đầu tôi phải từ chối BGK này. Họ không đủ Tâm, đủ Tầm để bỏ phiếu cho tác phẩm. Họ chỉ đủ Tâm, đủ Tầm để bỏ phiếu cho tên tác giả. Hai phiếu trắng ở đây nói lên điều gì?  Làm giám khảo mà không dám đối mặt với chỉ một cái tên trên một tờ giấy? Vậy tại sao họ vẫn thích ngồi ở ghế BGK? Tiền ư? Không nhiều đâu. Mùa giải 2011 hội đồng văn xuôi đọc hơn 200 cuốn, tiền thù lao là 12 triệu đồng, trừ 1.2 triệu tiền thuế. Năm nay chưa nhận. Mùa kết nạp năm 2011 danh sách hội đồng văn xuôi đưa lên BCH, kiểm lại thấy thiếu một người, hội đồng phải bỏ thêm. Mùa kết nạp năm nay hội đồng thơ cũng phải làm điều tương tự. Vậy họ vì cái gì? Vì oai. Họ có quyền mưa móc và phán xét. Có thể tôi nhầm. Có thể được nhiều thứ nữa, không chỉ là oai. Vì họ đã phải đùng đến mọi thủ đoạn mánh lới, thậm chí tận diệt.

Tôi từ chối không nhận bằng khen. Điều đó đồng nghĩa với việc tôi không thừa nhận BGK này. Tại sao tôi lại phải chấp nhận một BGK không đủ Tâm đủ Tầm đủ Tài? Với một lý lẽ thông thường: Dám làm dám chịu các vị cũng không dám? Mà lại thích mưa móc ban ơn.

Lợi ích nhóm. Cụm từ tưởng rất xa lạ trong văn chương. Nhưng không ngờ nó lại gần gũi đến vậy. Và tôi đã nhìn thấy nó đang trói buộc các vị. Một câu cửa miệng của các vị, nghe rất buồn cười, tôi có muốn làm đâu, anh ấy cứ bắt tôi làm. Giời ạ, thế hệ chúng tôi đang còn sung sức đây để chúng tôi làm cho. Anh ấy ơi để chúng tôi làm cho. Chờ đấy, cái thế hệ gạch nối chúng mày. Cứ viết đi, cứ phấn đấu đi, cứ tâm huyết đi, cứ đổi mới đi…Trong các báo cáo thành tích chúng anh khen chúng mày lên tận mây xanh nhưng thực tế bọn chúng anh đè cho không ngóc đầu lên được đâu. Đừng có ti toe..Không, tôi không ti toe. Tôi chối từ.
Khi tôi chọn con đường dại này tôi cũng đã chọn một hội nghề nghiệp để tựa lưng. Tôi đã vun xới cho những hi vọng của mình. Tôi cũng vun xới cho hội nghề nghiệp tôi đã chọn. Bằng những tác phẩm của mình tôi cũng đã làm rạng danh cho hội nghề nghiệp. Bằng chứng ư? Trong những bản báo cáo thành tích của hội cái tên Y Ban thường được xướng lên. Nhưng cuộc vui thì ngắn, nỗi buồn thì dài. Hai tác phẩm của tôi là I Am Đàn bà (2007) và Này hỏi thật thấy gì chưa đấy( 2011) bị thu hồi, truyện ngắn I Am Đàn bà bị rút giải, hội nghề nghiệp phủi tay đứng ngoài cuộc. Lúc tôi cũng thương thân mà khóc. Sau nghĩ lại sự phủi tay đứng ngoài cuộc đó lại là một sự may mắn cho tôi. Trong quá khứ đã chẳng có những đòn của đồng nghiệp mà chết hắn một đời người, một đời văn đó sao?

Khi tôi viết thư ngỏ này, tôi bỗng nhớ đến câu chuyện trong lúc trà dư tửu hậu, một vị trong BCH kể rằng, ông chủ tịch có lần đã nói đại ý, để xem thế hệ trẻ họ đối xử với nhau thế nào? Tôi giật mình đến thột. Trẻ đấy, mà thực ra có trẻ nữa đâu, đều trên dưới 50 cả rồi, thọi nhau đi, để chúng anh vỗ tay. Lại một lần nữa tôi xin bái phục ông chủ tịch. Ông thánh thật. May tôi đứng gần, nhìn rõ. Tôi vẫy cờ trắng. Tôi xin đầu hàng. Tôi xin bày tỏ sự nể phục ông một lần nữa. Thế hệ ông, ông đã lo cho tròn. Mỗi người được một góc bánh. Để lo được sự tròn trịa đó ông cũng đã nếm chịu sự khốn nạn. Mà sao ông tài chịu đựng.

Tôi vẫn có niềm tin và hi vọng, rằng một ngày kia hội nghề nghiệp sẽ thực sự nơi tựa lưng cho những người cầm bút. Chắc phải chờ cho đến khi miếng bánh đã được chia hết. Nhưng để có sự tin tưởng đó thì hiện tại tôi phải nên tránh xa cái sự Dối Trá lộng lẫy huy hoàng trơn lì bóng nhẫy trường kỳ lưu cữu này.

Cuối cùng tôi xin chúc các Vị sức khỏe an khang, bách niên giai lão, sống lâu trăm tuổi để tiếp tục dẫn dắt nền văn học Việt Nam.

Hà Nội ngày 18.1.2013.
Y BAN

---------------
* nguồn: lethieunhon



nữ văn sĩ "chê" bằng khen: ban giám khảo hãy phản biện lại tôi đi!




Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam còn lâu mới có giá trị (về mặt vật chất) như giải “Bài hát yêu thích” đang phát sóng trên truyền hình. Nhưng không vì “hẻo tiền” mà xuôi chèo mát mái.
Ngày 18/1, nữ nhà văn Y Ban đã tung ra “Thư ngỏ” gửi một số hộp thư của người trong giới, bày tỏ bức xúc về sự “thiếu tâm, thiếu tầm” của những người cầm cân nảy mực ở một hội danh giá.

Vì sao trong thư ngỏ chị lại viết, Ban Giám khảo không có tâm, không có tầm? Đặt câu hỏi ngược lại, thế hệ như chị, trẻ trung hơn, nếu hoán đổi vị trí, chị có dám tin mình sẽ có tâm, có tầm không?

Cái tâm, cái tầm (cũng thật khó nói), nhất là văn chương, mỗi người mỗi ý, mà nhà văn, không phải ai sinh ra cũng có “khiếu” làm giám khảo. Cho nên cái tâm, cái tầm với tôi là dám đương đầu, dám thách thức.
Bây giờ tôi muốn ban giám khảo (gồm 9 người) phản biện lại tôi đi, họ hãy nói lại với tôi (mà không phải với tôi nữa, tôi khép lại rồi) họ nói lại với tất cả bạn đọc, tất cả những người đang theo dõi việc này là chúng tôi đủ tâm, đủ tầm, đủ tài.
Họ phải phản bác lại, phải phân tích từng tác phẩm hay ở đâu, dở ở đâu. Ngồi ghế giám khảo có nhà lí luận phê bình Phan Trọng Thưởng, Lê Quang Trang, rồi các nhà văn nhà thơ, toàn gạo cội cả đó chứ.
Họ phải lí giải vì sao tác phẩm cô này tôi chỉ cho thế thôi, vì sao tôi để phiếu trắng. Mọi người phải phân tích được, cái tâm, cái tầm, cái minh bạch là ở chỗ đó.
Quan trọng là dám đương đầu, xin mời các vị hãy lên tiếng đi, hãy phản biện là Y Ban sai đi. Tôi chỉ mong tôi sai. Rất mong tôi sai.

Vì sao chị lại chọn hình thức thư ngỏ?

Tôi không muốn để ảnh hưởng tới ai nhưng tôi đã chọn thư ngỏ, tôi chọn những mạng để tôi đưa lên, nghĩa là tôi muốn để mọi người biết vấn đề này. Nó không phải chuyện nội bộ của Hội nhà văn nữa, không phải cá nhân tôi, mà là của mọi người.
Tôi nghĩ không phải vào Hội để oai, để sang, để chia nhau miếng bánh. Có người hàng chục năm, hai chục năm không viết gì mà vẫn sống trong vinh quang, trong sự tung hô, tung hô đi tung hô lại.
Trong khi đó những người khác vẫn miệt mài viết, tìm tòi, đổi mới thì lại bị thờ ơ. Đó là thực trạng ở Hội.
Về sự cố này, điện thoại cho Nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, ông cười bình tĩnh. Vị Chủ tịch cho biết, đã đọc thư ngỏ của Y Ban nhưng ông đang ở quê nên chưa tiện trả lời.

Vậy theo chị dựa vào đâu để định giá sự đổi mới ở một cây bút? Vì văn chương như chị nói, thật khó cân đong đo đếm?

Bằng nhiều nguồn. Cả một đội ngũ lí luận phê bình, rồi dư luận bạn đọc, rồi chính những người làm báo chí nữa. Chúng ta nhìn sang nước Mỹ xem, có hẳn tờ New York Times, tác phẩm nào lọt vào đây là tác phẩm danh giá.
Nhưng thêm điều nữa tôi nói để bạn biết, các nhà lí luận của ta không kém đâu, cũng được đào tạo đàng hoàng bài bản, cũng sắc sảo vô cùng nhưng vấn đề là người ta không đọc, không cập nhật, không chịu được xu hướng mới. Người ta cho phép mình như thế.

Chị định nói họ già, họ chậm tiến?

Không, tôi không nói họ già.

Nhưng người không tiếp nhận cái mới ắt là người già?

(Cười) Đó là ý bạn. Tôi không dám bảo họ già, họ trẻ trung vô cùng. Bởi vì đến 70 tuổi, họ vẫn cứ ngồi ghế nọ, ghế kia.

Đã là hội nghề nghiệp kể chi tuổi tác?

Đúng rồi. Nhưng họ phải tự biết mình.

Chị viết: “Khi bức thư này tới tay các quý vị cũng có nghĩa rằng tôi chính thức chối bỏ cái ghế uỷ viên hội đồng văn xuôi”. “Cái ghế này” mang lại cho chị những gì từ khi ngồi vào?

Tôi nói rồi, nó chả mang lại gì cả. Tôi đã nói hết trong thư ngỏ rồi, bạn cứ trích ra.

Chị mô tả hoạt động của Hội đồng văn xuôi khá “hồn nhiên”, thậm chí có người trong Hội đồng chẳng đọc mấy. Chị nghĩ gì về quy trình chấm giải văn chương bấy lâu nay?

Chả có quy trình gì hết. Người ta muốn làm thế nào thì làm. Nay họ làm thế này, mai họ làm thế khác. Quy trình trong tay một ông đứng đầu.

Phiếu trắng cũng là một ý kiến nhưng vì sao chị phản đối? Hay chị cho rằng người bỏ phiếu trắng chưa đọc tác phẩm của chị?

Tôi phản ứng cái này vì họ không dám đối diện với lương tâm của họ. Tại sao không sổ toẹt rằng, không hay, không ra gì.
ban chung khảo chưa phải nơi quyết định cuối cùng

Được biết, Quy trình xét giải thưởng hàng năm của BCH Hội Nhà văn Việt Nam khóa VIII như sau: Các Hội đồng chuyên môn (Văn xuôi, Thơ, Lý luận phê bình, Văn học dịch), rà soát và đọc những tác phẩm đúng quy định xét giải do nhiều nguồn giới thiệu lên. Những tác phẩm nào Hội đồng đồng ý đề nghị xét giải và xét Bằng khen được gửi lên Ban chung khảo (thường được gọi là Ban giám khảo). Ban chung khảo có thể là tất cả các Ủy viên BCH, cũng có thể là một số ủy viên BCH do BCH cử ra. Được biết, xét giải năm 2012, Ban chung khảo có 9 ủy viên BCH (trong tổng số 15 ủy viên BCH).


Các Hội đồng chuyên môn (tương tự hội đồng sơ khảo) chỉ tham mưu cho BCH những tác phẩm mà họ thấy xứng đáng để trình lên Ban chung khảo. Kết quả Ban này đưa ra vẫn chưa phải là cuối cùng. Theo điều lệ Hội, việc xét giải thưởng, trao giải thưởng và tặng bằng khen hàng năm cho các tác phẩm xứng đáng là quyền hạn của BCH. Như vậy, kết quả giải thưởng văn chương 2012 sẽ được chính thức quyết định trong thời gian tới.

Chị nói, không chấp nhận Ban giám khảo này. Tại sao điều đó không diễn ra sớm hơn, đến bây giờ khi không ẵm giải lớn, chị mới không chấp nhận?

Câu đó nên hỏi người khác. Nếu tôi không dấn thân như thế, không trải nghiệm như thế thì làm sao tôi biết thâm cung bí sử?

Chỉ trích họ ham chiếm ghế nhưng trong thư ngỏ chị lại “chúc các vị sức khoẻ, an khang, bách niên giai lão”?

Họ cố thủ như thế thì mình chúc họ như vậy. Họ không bao giờ chịu nhả ra đâu. Đại hội nhà văn nào cũng có những câu vè rất hay (cười). Đấy. Nhưng họ vẫn thích vô cùng quyền lực, họ vẫn ngồi.
 Tha hồ phán xét tôi đi. Tôi tự nhận tôi đi trên con đường dại và tôi ham hố. Vì ham hố nên tôi vẫn còn đi dự giải, tôi vẫn còn hy vọng những điều tốt đẹp.

Thế nghĩa là, nếu Y Ban đoạt giải chắc chắn không có thư ngỏ?

Đúng, chuẩn luôn. Đúng quá. Bởi vì Y Ban mà đoạt giải thì quá đỗi bình thường.
“Văn minh, vợ người”, thật chẳng sai chút nào!
Người viết nào chẳng tự tin. Nếu mọi người công tâm với Y Ban sẽ thấy cuốn sách nào của Y Ban cũng đổi mới. Chúng ta tranh luận trên cuốn này (Trò chơi huỷ diệt cảm xúc - chính là cuốn xét giải năm nay - PV) tôi tự tin để nói điều ấy. Hẳn một lối viết khác. Mỗi chương của tôi gần như một truyện ngắn sống độc lâp được. Câu chữ của tôi có nhịp điệu nói lên toàn bộ thời chúng ta đang sống. Văn chương của tôi có sự gắn kết, văn của tôi có lửa. Mọi người đã đọc cuốn sách của tôi, mọi người sẽ không bỏ ra được. Một điều nữa khiến tôi tự tin là dư luận bạn đọc. Tôi tôn trọng bạn đọc.

Chị có hối tiếc vì đã vào Hội không?

Không. Tôi không hề hối tiếc. Tôi tự hào là tôi đã chọn Hội Nhà văn Việt Nam, cho đến bây giờ tôi vẫn tôn trọng nó. Tôi tự hào tôi là người tử tế, ăn cây nào rào cây ấy. Tôi chọn con đường dại của tôi. Nếu tôi ra khỏi Hội tôi vẫn là Y Ban. Ở trong Hội tôi vẫn là Y Ban. Tôi có thêm một giải thưởng nữa, vẫn là Y Ban. Tôi có bớt đi một giải thưởng, vẫn là Y Ban.

Chị có lo cơn sóng chị tạo ra không nhấn chìm ai, lại nhấn chìm chính chị?

Ôi không. Không nhấn chìm được tôi đâu. Bởi vì tôi là nhà văn, mọi điều tôi trải qua, sẽ vào tác phẩm của tôi. Tôi nói cho bạn nghe búa rìu dư luận của "I am đàn bà" ghê lắm mà tôi vẫn chịu được.

---------------------------
Theo Lê Anh Hoài - Hồng Diệu
Tiền Phong

***


Về sự cố này, điện thoại cho Nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, ông cười bình tĩnh. Vị Chủ tịch cho biết, đã đọc thư ngỏ của Y Ban nhưng ông đang ở quê nên chưa tiện trả lời.
  


ban chung khảo chưa phải nơi quyết định cuối cùng

Được biết, Quy trình xét giải thưởng hàng năm của BCH Hội Nhà văn Việt Nam khóa VIII như sau: Các Hội đồng chuyên môn (Văn xuôi, Thơ, Lý luận phê bình, Văn học dịch), rà soát và đọc những tác phẩm đúng quy định xét giải do nhiều nguồn giới thiệu lên. Những tác phẩm nào Hội đồng đồng ý đề nghị xét giải và xét Bằng khen được gửi lên Ban chung khảo (thường được gọi là Ban giám khảo). Ban chung khảo có thể là tất cả các Ủy viên BCH, cũng có thể là một số ủy viên BCH do BCH cử ra. Được biết, xét giải năm 2012, Ban chung khảo có 9 ủy viên BCH (trong tổng số 15 ủy viên BCH).

Các Hội đồng chuyên môn (tương tự hội đồng sơ khảo) chỉ tham mưu cho BCH những tác phẩm mà họ thấy xứng đáng để trình lên Ban chung khảo. Kết quả Ban này đưa ra vẫn chưa phải là cuối cùng. Theo điều lệ Hội, việc xét giải thưởng, trao giải thưởng và tặng bằng khen hàng năm cho các tác phẩm xứng đáng là quyền hạn của BCH. Như vậy, kết quả giải thưởng văn chương 2012 sẽ được chính thức quyết định trong thời gian tới.



thêm một nhà văn từ chối tặng thưởng


Chiều tối hôm qua (19/1), thêm một bức thư ngỏ của một nhà văn được “chấm” hạng Bằng khen được tung lên mạng. Đó là nhà văn Phạm Ngọc Cảnh Nam. Khác với nhà văn Y Ban, nhà văn Phạm Ngọc Cảnh Nam kiệm lời hơn, ông viết:


Thư ngỏ gửi Hội Nhà Văn VN


Tôi Phạm Ngọc Cảnh Nam, người vừa được HNV VN công bố tặng bằng khen năm 2012 cho cuốn tiểu thuyết “Thế Kỷ Bị Mất” của tôi.

Tôi xin giành quyền được từ chối bằng khen nầy của HNV .

Lý do đơn giản, mà ai cũng thấy là giải thưởng đã không được xét đúng theo tiêu chí văn chương. Và, cũng là để cho sự trung thực còn có chỗ trú ngụ trong ngôi đền thiêng liêng của nó là Văn Học.

Phạm Ngọc Cảnh Nam”.



Theo tôi được biết, tiểu thuyết “Thế Kỷ Bị Mất” của nhà văn Phạm Ngọc Cảnh Nam được hội đồng văn xuôi đánh giá rất cao, với 6/7 phiếu (Một người không bỏ phiếu vì chưa đọc) cuốn tiểu thuyết được xếp đầu bảng giải văn xuôi năm nay. Nhà văn Nguyễn Khắc Trường đã phải thốt lên: “Lâu lắm rồi mới đọc được cuốn sách hay như thế này”. Thế nhưng lên BCH, cuốn sách đã bị đánh tuột khỏi giải chính thức, chỉ được cái bằng khen.

Thực ra các nhà văn nước ta đều có con mắt xanh, bảo họ ngu là không đúng. Nhưng khi bình xét giải thưởng họ không dám dùng con mắt xanh trời cho.

Nhà văn Nguyễn Quang Lập









Thứ Bảy, 19 tháng 1, 2013

nhà thơ hoàng vũ thuật làm hàng giả thi ca như thế nào?



Và nhà thơ Hoàng Vũ Thuật cũng khắc họa chân dung của mình một cách đúng nhất:



như người điên đi trong dầm dã

hai mươi năm sau

không biết nơi nào để dừng

(Mưa trên mười ngón tay dài)


Cần gì đến hai mươi năm, ngay bây giờ kiểu viết vô lối, tắc tỵ, bệnh hoạn của Hoàng Vũ Thuật đã không chốn nương thân, bị loại bỏ ra khỏi tâm hồn Việt như bao loại Vô lối khác!...

VÔ LỐI, TẮC TỴ HOÀNG VŨ THUẬT
      
Trong cuộc sống, nhà thơ Hoàng Vũ Thuật sống chân tình chung thủy vợ con, cưu mang bạn bè, người thân; nhưng trong sáng tác thì Hoàng Vũ Thuật rất làm hàng giả. Giả trong cách lập tứ, chọn từ, đặt câu, thi tứ, mô phỏng. Cái giả nó đeo theo nhà thơ từ khi chập chững vào nghề cho đến hôm nay đã thất thập cổ lai hy, đầu suy tứ chi!
Nghĩ cho cùng không phải lỗi của Hoàng Vũ Thuật mà nói như từ thông dụng bây giờ là lỗi cả một hệ thống. Cả thế hệ cứng như một thỏi sắt (Lưu Quang Vũ). Nhiều lớp lớp làm nhà ca học, hót học, hát học, cười học… Trùng trùng điệp điệp cổ động viên tự giác và không tự giác.
Đến nỗi như nhà thơ Phạm Tiến Duật nổi tiếng nhất trong thơ chống Mỹ cũng làm “nhà cười học” khi viết bài thơ tình Cái chao đèn duyên tình thế mà phải thêm hai câu kết rất dở hơi mới được in và mới được phổ biến:

CÁI CHAO ĐÈN

Con trai đội nón bao giờ
Vì mưa nên phải đi nhờ nón em
Bấy lâu mũ sắt đội quen
Buồn cười cái nón tòn ten trên đầu.
Khoảng râm là ánh sáng màu
Của tình yêu đội trên đầu đó em.
Hông hồng khuôn mặt xinh quen,
Nón bài thơ cái chao đèn của anh!

Khi đưa in, nhà biên tập không đồng ý vì cả nước đang đánh giặc mà nhà thơ lại làm thơ tình thuần túy. Bất đắc dĩ, Phạm Tiến Duật phải viết thêm hai câu kết không ăn nhập gì để được in:
Mũ va vào mũ lanh canh
Đường xa nhớ nón che anh buổi nào!
Rồi tiếp đến nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ suốt thời chống Mỹ nằm hầm ở thôn Phú Vinh (Trụ sở Hội Văn nghệ Quảng Bình đóng) cũng phịa, tưởng tượng ra mình là bộ đội hoặc thanh niên xung phong hành quân:
Đơn vị tôi hành quân qua con đường mòn
Gặp hố bom nhắc chuyện người con gái
(Khoảng trời và hố bom)
Và dùng nhiều câu đại ngôn, hô khẩu hiệu sáo mòn để cổ động:
Em đã lấy tình yêu Tổ quốc của mình thắp lên ngọn lửa.
(Bài đã dẫn)
Nhà văn Dương Thu Hương cũng vậy. Tưởng tượng mình là chiến sỹ lái xe đi trên đường gặp nhiều hoa Trâm Lê (hoa phịa, anh em gọi là hoa Đâm Lê) hứa sẽ làm tròn nhiệm vụ ngoài tiền tuyến cho hậu phương yên tâm sản xuất…

Thế hệ Hoàng Vũ Thuật là thế hệ chống Mỹ. Cả nước gồng lên đánh một đế quốc giàu mạnh nhất thế gới nên văn chương cũng gồng lên nhiều lần để phục vụ cho mục đích đánh giặc của nhà cầm quyền:
Ta lại viết bài thơ báng súng                                                     
Con đứng lên viết tiếp thay
Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống
Người hôm nay viết tiếp người hôm qua.
(Hoàng Trung Thông)
Tố Hữu nhà thơ của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng viết:
Dẫu một cây chông trừ giặc Mỹ
Hơn nghìn trang giấy luận văn chương!
Cho nên cả nước từ văn chương, thơ ca, nhạc, họa đều phải vót chông trước khi vót văn.
Hồi ấy in ấn rất khó khăn từ trung ương đến địa phương. Văn thơ không nói về bom đạn, hỏa tuyến, đánh giặc, bắn máy bay, bộ đội, thanh niên xung phong, ta thắng địch thua… thì rất khó in.
Hội văn nghệ Quảng Bình có tờ Văn nghệ Quảng Bình, anh em phải xếp hàng nhiều năm mới có bài đăng.
Một lần Hoàng Vũ Thuật đưa bài “Quả ổi trong vườn chín sớm” đến Ban biên tập để duyệt.
Nội dung là tả trái ổi trong vườn bị viên bom bi găm vào nên nó chín sớm. Ban biên tập mới phê rằng: “Sự việc có thật nhưng người viết đã chọn không điển hình nên nó thành giả. Bom đạn Mỹ ném bom, bắn súng hàng ngày để bao nhiêu người chết, súc vật chết không viết, mà viết quả ổi bị bom bi chín sớm vừa sến, vừa nhẹ tênh, gượng gạo thế nào! Có sự việc không có thật nhưng nhà thơ điển hình hóa nó lên thì đọc như là thật”.
Từ đó Hoàng Vũ Thuật đi tìm cái điển hình hóa không thật để làm cho nó thật. Nhưng tai hại thay, sau khi văn chương cổ động tuyên truyền qua đi thì những cái giả nó lại lai hoàn giả, không thể chấp nhận được:
Qua ải Bắc, đèo Nam
Qua Trường Sơn nắng mưa dằng dặc
Anh thành người con trai suốt đời đi đánh giặc
(Cây Nhạc ngựa)
Hoàng Vũ Thuật thì không một ngày mặc áo lính, không biết khẩu AK lắp đạn như thế nào, một băng đạn có mấy viên và bắn liên thanh hay bắn ba phát một thì địch mới sợ nhưng Hoàng Vũ Thuật hay thay lời người ra trận làm thơ cổ động chiến đấu, hay đánh giặc trên giường (!). Điều này cũng không vấn đề gì, xưa nay mọi người vẫn làm, miễn là hay xúc động là được. Đằng này bài Cây nhạc ngựa vừa giả vừa dở, vừa không có một chút gì gọi là thi pháp nên nó rất phản cảm. Mặc dầu bài này được giải thưởng thơ báo Văn nghệ đâu năm 1986. Rồi tập Tháp nghiêng cũng được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. Giải thưởng dù giải địa phương, dù giải trung ương đều đáng trân trọng. Nhưng lấy giải thưởng mà đo chất lượng một đời thi ca là một việc hoàn toàn sai lầm. Vì giải thưởng chỉ phục vụ cho một giai đoạn, một hoàn cảnh nhất định, một chính thể cụ thể. Bài Cây nhạc ngựa vừa giả dối, vừa kém thi pháp, vừa gần như mô phỏng nhiều câu của Phạm Ngọc Cảnh trong bài thơ Lý ngựa ô ở hai vùng đất:
Mai xa rồi, em nhớ anh không?
Trăng lại tròn vầng trăng biên cương
Ngựa tung bờm trắng thảo nguyên gió.
Cỏ vô tận cho lòng anh rong ruổi
(Cây nhạc ngựa – Hoàng Vũ Thuật)

Ngựa tung bờm bay qua biển lúa
Ngựa ghìm cương nơi sông xòe chín cửa
Gặp câu hát bền lòng rong ruổi mãi
(Lý ngựa ô ở hai vùng đất - Phạm Ngọc Cảnh)

Cha ông ta đã từng viết về người lính suốt đời đánh giặc một cách nghệ thuật tài tình:

Ban Siêu quy thời mấn dĩ hoa
 [Chàng Siêu mái tóc điểm sương mới về]
(Chinh phụ ngâm – Đặng Trần Côn – Đoàn Thị Điểm)
Là biết chàng Siêu suốt đời đánh giặc rồi, cần gì mà nói:
Anh thành người con trai suốt đời đánh giặc!
Viết thế, vừa không thơ, vừa không thật, vừa ảnh hưởng thơ người khác:
Cái giả của Hoàng Vũ Thuật đi vào cả đề tài tình yêu:
… Rồi em làm quan tòa
Đưa anh ra xử án
Và có thể cao hơn
Đem pháp trường xử bắn.

Mặc tất anh chẳng cần
Sợ gì giấy xích sắt
Nếu đạn bắn vào anh
Sẽ làm em chết mất!...
(Không đề)
Lúc đầu Hoàng Vũ Thuật viết câu kết Nếu đạn bắn vào anh/ Sẽ làm em chết ngất.
Anh em góp ý là chết ngất là chết giả. Hoàng Vũ Thuật sửa lại chết mất cũng là chết giả nốt. Mình như thế nào, là vua chăng, là thượng đế chăng mà người tình có thế chết(!). Vua và thượng đế đầy quyền lực đấy nhưng người tình chưa chắc đã thèm chết. Ngay thần Juipite bá chủ Olempơ mà đã có người tình nào chết đâu!
Hoàng Vũ Thuật rất chủ quan, rất không thực chút nào. Thật ra nhà thơ chẳng hiểu gì quy luật tâm lý. Chín con chưa thật mặt chồng, huống gì mới tình tang đôi lứa ngoài đường, người con trai trộm yêu người con gái. Việc này vô cùng giả dối.
Giang Nam thật tình hơn:
Hôm nay nhận được tin em
Dù không tin đó là sự thật
Giặc giết em rồi quăng mất xác
Chỉ vì em là du kích em ơi.
Đau xé lòng anh chết nửa con ngươi!
(Quê hương – Giang Nam)
Chết nửa con người của Giang Nam là chủ thể, nó thực nên thuyết phục người đọc, đọc xúc động đến hôm nay.
Hoàng Vũ Thuật viết đã giả lại quá cũ như hai nghìn năm trước:
Giữa bãi cát vàng em là cây
Bóng em đổ xuống hai vai gầy
Anh ngồi trưa nắng như thiêu đốt
Mỗi chiếc lá xanh một bàn tay…
(Em là)
Minh nguyệt cao cao khắc lậu trường
Trân châu liêm bạc yểm lan đường
Hoành thùy bảo ác đồng tâm kết
Bán phất quỳnh diên tô hợp hương…
(Đảo thiên y – Lý Bạch)

Trăng sáng cao vời giờ điểm đây.
Nhà lan châu ngọc ánh vơi đầy.
Tấm lòng cùng kết bên màn liễu,
Phảng phất chiếu quỳnh hương ngất ngây!...
(Đỗ Hoàng dịch)
Gần bảy mươi tuổi, nhà thơ Hoàng Vũ Thuật tự lột xác mình, cố gắng đổi mới, phá bỏ cách viết cũ và giả của mình gần 60 năm qua. Nếu thế thì đáng quý biết bao, dù còn sống một giây cũng phải đổi mới, nhưng tiếc thay Hoàng Vũ Thuật chẳng có đổi mới gì mà chỉ sa đà vào tắc tỵ, bí hiểm, cầu kỳ rắc rối, tù mù, hủ nút, không còn một chút rung động thi ca. Chỉ có rặt những kiểu nói tắc tỵ, bí hiểm, đánh đố mình, đánh đố người đọc vì một kiến văn thiển cận, kiến thức hạn hẹp, rất nhiều chỗ hỏng trong học vấn, ít từng trải, sai cả quy luật tâm lý, quy luật tự nhiên, xã hội…
Được các bác sỹ đỡ đẻ hải ngoại quanh năm ngồi trong phòng sản phụ đỡ con Mỹ đen, các học giả, học thật, tiến sỹ bò tung hô… nên Hoàng Vũ Thuật càng dấn sâu vào quái thai, kỳ quặc, lởm khà lởm khởm, tắc tỵ…
Đặt tựa đề một cách tù mù, đánh đố:
Mãi viên trà, K, Ly, Hoàng An, Lá, Đo, Cõi, Ngược, Màu, Kiến…
Cầu kỳ, rắc rối:
Mưa trên mười ngón tay dài, Trưa lệch phai…
Những câu vô lối như bị tâm thần, nhạt nhẽo vô vị, không ai hiểu mô tê răng rứa, viết cho bạn mà như viết cho kẻ không ăn ngũ cốc, cho kẻ ở ngoài hành tinh hoặc quỷ dạ xoa dưới Long cung:
ngày mẹ đưa chúng mình xuống sông quẫy đạp
tình yêu dội lên hai bờ vai
đẫm vào da thịt
tia chớp sáng của ngọn sao khuya
chúng mình đứng như trời trồng khi tình yêu tới
những câu thơ vọt máu phát cuồng quất vào bức tranh
đớn đau khát cháy
(Viết cho bạn)
tù mù, vô nghĩa:

giờ thì anh trồng thêm gốc cây
thuộc loài bạch dương chờ đông sang phủ tuyết
nào có gì ổn định

rồi con sóng tiếp xô đổ anh
lúc anh là cát
những con sóng siêu hình lau sạch gương mặt cũ
như chén rượu đêm ấy
chặng cuối
(Hoàng An)

Viết sai cả quy luật tâm lý, quy luật xã hội, tình cảm:

ngu­ời di gan không buồn
chỉ biết hát
nhiệt cuồng và mê loạn

ngu­ời di gan không đau
chỉ biết múa
vũ điệu ngã nghiêng phố xá
rạch ríu làm xiếc diễn tuồng

ngu­ời di gan không khóc
chỉ biết c­ười
chào mời đổi chác
giơ tay xin giơ tay vẫy mặt trời
(Người Di gan)

Đáng khóc mà ta vẫn hát tràn
(Hồ Chí Minh)
Người Di gan phải như thế chứ mà thật như thế. Sao người Di gan lại không khóc, chỉ biết cười. Hoàn toàn khiên cưỡng!

Bí hiểm không ra bí hiểm, mù mịt, tâm thần không ra tâm thần, ngớ ngẩn, rất thiểu năng trí tuệ:

Một nghìn ba trăm năm mươi mét cao ly hồng nở
đôi mắt bồ câu

vô biên im lặng
cơn mưa đồng phạm
con chó thảo hiền không biết sủa dẫn tôi đi cùng

bài thơ tình ăn theo mưa
ly thơm vào trưa
xấu hổ tôi cúi mặt
(Ly)
Viết về một quán Mãi viên trà chỉ có bà mẹ và cô con gái mà Hoàng Vũ Thuật chế biến ra ba người là một thiếu nữ, một cô gái, một bà mẹ. Ai cũng biết đã dùng thiếu nữ thì thôi dùng cô gái, mà dùng cô gái thì thôi dùng thiếu nữ. Không hiểu ra làm sao:

nấp dưới cánh lá bồ đề màu phật
một cô bé một thiếu nữ một người mẹ
cô bé vắt tuổi thơ qua đồi sim
thiếu nữ mười sáu lần trăng đỏ
người mẹ đội nước lên chùa
(Mãi viên trà)

Viết rất điên rồ:

xóa đi rồi vẽ lại
nghẹt thở

thêm một nét gầy thêm một nét
chết lặng dưới chân cầu thang

nàng khóc
(Họa sỹ)

Mượn cái gọi là hậu hiện đại, cách tân, siêu thực, xuống dòng một cách vô lối, bệnh hoạn tùy tiện:
thỏi hình hài bẹp dí
long lóc
thở

ẩn dụ giữa rừng khô
héo

bày bán cùng
hoa
(trong tập Màu)

tìm nơi di trú
bằng chìa khóa mẹ
trao
(tiếng chim)

Nhôm nhoam nhiều câu viết lớm khởm, tối nghĩa, kiểu cách lên gân giả vờ, điệu đàng, sống sượng, triết lý vặt:

chẳng thể bắt níu những sợi tóc vào mùa
không người tuốt chải gặt hái
anh cắt dán cánh đồng lên thân thể em
điều phối cơn mưa
vá víu vết thương cuối hạ.
(Hoàng an)

rừng mọc dưới bờ mi
(Viết dưới tượng Exenhin)

đếm tiếng trái tim khuya
(Điều ấy có ý nghĩa gì)

huyền ảo uốn cong hiện thực
nhịp cầu tượng trưng gãy vụn
ẩn dụ giữa rừng khô
héo…
(Ý nghĩ vụt hiện)
Kể mãi không bào giờ hết.
Rồi Hoàng Vũ Thuật sa đà mượn hệ đếm, con số, thuật ngữ toán học nhét vào các bài vô lối phá hỏng thơ ca:

nằm dưới kia
một ông vua một hoàng hậu một người hầu
một thanh gươm một tuấn mã một mê nón
một lệnh truyền một trống giục một lời van

nằm dưới kia
một hộp sọ một ống xương một đốt lóng tay
một trung thực một đớn hèn một điên loạn

một ngọn lửa một đêm tối một chiều tà
một vận hạn một thức thời một nguyền rủa…
(Lăng tẩm)
Hoàng Vũ Thuật đã dùng đến 21 chữ một để diễn tả một sự việc chỉ cần một con số một là đủ:
Dưới kia có một đế vương
Tàn tro bụi bặm lóng xương chẳng còn.
(Đỗ Hoàng phóng dịch)

Trong thơ cổ kim có dùng con số, nhưng dùng khéo thì làm cho bài thơ hay lên rất nhiều:

MƯỜI THƯƠNG

Một thương bỏ tóc đuôi gà
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên
Ba thương má lúm đồng tiền
Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua
Năm thương cổ yếm đeo bùa
Sáu thương nón thượng quai tua dịu dàng
Bảy thương tính nết đoan trang
Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh
Chín thương em ở một mình
Mười thương con mắt có tình với anh!
(Ca dao)

Một canh, hai canh lại ba canh
Trằn trọc băn khoăn giấc chẳng thành
Canh bốn, canh năm và chợp mắt
Sao vààng năm cánh mộng hồn  quanh.
(Hồ Chí Minh)

Không chỉ nước ta mà nhiều nước, nhất là Trung Quốc nhiều nhà thơ dùng con số để diễn ý, diễn tình. Từ con số khô khan biến hóa muôn vẻ làm nên thi phẩm lung linh, bất hủ:

LÃO SƯ KHỐN

Nhất thân bình giả bố
Lưỡng tụ phấn bút khôi
Tam xan ngật bất bảo
Tứ quý thường sô mi
Ngũ canh tựu khởi sàng
Lục đườngyếm nhĩ ngật
Thất thiên nhất tinh kỳ
Bát phương cuồng kỷ hồi
Cửu thiên bất phát hưởng
Thập gia giai đoạn xuy.
(Khuyết danh)

ĐỜI GIÁO VIÊN XƯA

Một thân áo quần bố
Hai tay áo phấn đầy
Ba bữa ăn không đủ
Bốn mùa ủ mặt mày
Năm canh đã trở dậy
Sáu giờ mới ăn chay
Bảy ngày tròn tuần lễ
Tám phương biết gì đây
Chín ngày lương không có
Mười nhà đói lắt lay!
(Đỗ Hoàng dịch)

TUYỆT CÚ

Lưỡng cá hoàng ly minh thúy liều
Nhất hàng bạch lộ thướng thanh thiên
Song hàm Tây Lĩnh thiên thu tuyết
Môn bạc Đông Ngô vạn lý thuyền
(Đỗ Phủ)

Hai cái oanh vàng kêu liễu biếc
Một hàng cò trắng vút trời xanh
Nghìn năm tuyết núi sông in sắc
Muôn dặm thuyền Ngô cửa rập rình.
(Dịch – Khuyết danh)
Bài trên có các con số: Hai, một, vạn, nghìn.
Trong những người làm Vô lối, Hoàng Vũ Thuật cũng là người dùng một cách lạm phát từ ngữ nước ngoài nhất là âm Hán Việt ít Việt hóa như: điều phối, thảo hiền, hiển lộ, mê lộ, tẩy trần, trùng phùng, mãi viên trà, di trú, vô chủ, tấu khúc, miền hiển thủy, miền thiên hư, vô cư, vũ điệu, di hài, thuần khiết, tạ từ, nguyên thủy, cuồng thảo, mãn nguyện, nguyện cầu, hoan lạc, hoang phế, biến thể… hằng hà vô số. Đọc vô cùng khó chịu!

Tôi đã từng viết tặng nhà thơ Hoàng Vũ Thuật để nói lên cái “việc làm tốt nghĩa vụ của người công dân thì người thi sỹ rất đau khổ” của anh (ý của nhà thơ Nhê ka rê xốp – Nga):
Anh là nhà thơ Nhà nước
Có việc làm ăn hẳn hoi
Thế mà đời thật cơ cực
Thơ anh nén khóc để cười…
(Lang thang chiều Huế)

Và nhà thơ Hoàng Vũ Thuật cũng khắc họa chân dung của mình một cách đúng nhất:

như người điên đi trong dầm dã
hai mươi năm sau
không biết nơi nào để dừng
(Mưa trên mười ngón tay dài)

Cần gì đến hai mươi năm, ngay bây giờ kiểu viết vô lối, tắc tỵ, bệnh hoạn của Hoàng Vũ Thuật đã không chốn nương thân, bị loại bỏ ra khỏi tâm hồn Việt như bao loại Vô lối khác!...