Thứ Hai, 17 tháng 9, 2012

tìm hiểu thơ “Có Thể” của đoàn minh châu - khổng đức

             

 
                  Từ trước tới giờ tôi vẫn tuân thủ theo Wallace Stevens “Người đọc thơ là người hành hương, xuất phát lên đường, giãi bày” (The reader of poetry is a kind of pelgrim setting out, setting forth). Thế nhưng đối với tập thơ “Có Thể” chỉ có 31 bài với số lượng mỏng manh 40 trang khổ 13 x 20, mà tôi phải nghiền ngẫm khá lâu khổ sở hơn cả người hành hương. Vì tôi quan niệm thưởng ngọan không phải đơn thuần hưởng thụ mà coi đó như là sự tiếp thụ thẩm mỹ, tự thân phải tiến nhập vào tác phẩm để tìm hiểu tính nội tại trong đó. Nói một cách khác, là chúng tôi phải dấn thân tham dự vào tác phẩm như một tác giả thứ hai, tình cảm cũng phải đắm đuối cuồng nhiệt, cũng vui buồn thương ghét tha thiết mới mong đạt được sự thể nghiệm sâu xa về chân lý tồn tại. Nói đến chân lý là các bạn nghĩ ngay đến cái gì cao xa, thật ra theo chủ nghĩa hiên thực nó chỉ là “sự thực ở trong lí tính”; như vậy bản thân nghệ thuật chỉ là kĩ xảo, thứ kĩ xảo trình hiện sự thật lí tính.      
                   Cũng có thể do tuổi tác của tôi đã quá gần đất xa trời nên thành lú lẫn, có những nhận định về thơ Có Thể hơi khác thường, do đó mà có bài nhận xét này viết ra với tính cách “vấn nạn” gởi thẳng cho tác giả và những bạn chí thân để thăm dò… Tuy nhiên cũng còn chút tự ái, nên đồng thời cũng để biện hộ cho những khờ khạo ngốc nghếch của mình, ngoài việc trình bày những câu thơ của tác giả minh chứng, tôi còn áp dụng hình thức cắt dán (montage) những ý kiến của các triết gia, học giả, các nhà mỹ học tiếng tăm của thế giới như Heideigger, J.P.Sartre, Merleau-Ponty, Gadamer, A. Badiou, E.Morin, J.M. Maulpoix, v.v… không chừng cũng là điên cả, vì minh triết và điên cuồng cũng là một lò.
                   Nhưng thôi hãy như Samuel Beckett “càng nói lắm càng thêm ngược ngạo”, mà nên đi vào vấn đề chính yếu là Thơ, giờ hãy nói về những bài thơ Nắng… Và trước khi đi vào viêc tìm hiểu nội dung những bài thơ  trong tập Có Thể, tưởng chúng ta cũng nên nắm vững cái nguyên lí này của Gadamer viết trong tập khảo cứu về mỹ học quan trọng là “Chân lí và phương  pháp” (Truth and Method):
                   “Sứ mệnh của nghệ thuật không phải là biểu hiện lại cái lí tưởng thiên nhiên – mà chính là phát hiện cái tự ngã của mình trong thiên nhiên và trong thế giới lịch sử. Nghệ thuật là một phương thức nhận thức độc đáo, là phương thức nhận thức chân lí, thứ chân lí truyền đạt đồng nghĩa với sự tồn tại. Ý nghĩa của nghệ thuật là dựa vào nó mà chúng ta nói lên cái gì là sự thật; con người có thể đối diện với tự thân trong nghệ thuật, vì nghệ thuật là vùng đất trời để tâm linh con người hoạt động tự do”.
                    Có như thế chúng ta mới hiểu được ý nghĩa “Nơi mùa hạ đi qua”, cũng như những bài khác. Mùa hạ ở đây là mùa của khô hạn, nắng nung, đầy tai họa khốn khổ, thứ thần quyền của ác ôn, chứ không phải là thần Thái dương hiền hòa, là nguồn ánh sáng tạo ra sự sống. “Mùa hạ không mang dấu vết”, đây không phải là hiện tượng của hư không, mà dấu vết phải hiểu như là dấu ấn là tiêu biểu cho không có gì là sở hữu; “nằm mơ trên bàn tay trống trơn” là không có gì cả. Thế nhưng lại đầy uy quyền ngự trị hay khống chế tất cả, nên khi mùa hạ đi qua thì cả không gian và thời gian chìm trong bầu khí oi nồng nóng bức…
                    “khi cánh cửa mở ra” cánh cửa có thể hiểu là cửa của một thành phố hay một quốc gia. Mở ra nếu dịch ra Hoa Việt thì đó là khai phóng, chữ Khai lại là bộ môn, nên câu “cánh cửa mở ra” có lắm ý, hiểu thế nào mà chả được. Có điều gió vào phòng lắng nghe cây xương rồng sắp chết, một loại cây sanh sống ở sa mạc mà cũng không chịu nổi sức nóng nung của nắng hạ.
                    Nhà thơ hay vận dụng ngôn ngữ một cách táo bạo không sao nói được, nó xoay trớ ngôn ngữ sao cho vừa vặn thích hợp. Từ ngữ với họ không còn là phù hiệu ch đạo, mà đúng hơn là sự bày tó đặc biệt chính xác cúa cái đẹp gắn liền với sự mất quyền sở hữu và ngay c với việc bất an (Maulpoix).
                  k câu chuyện về một mùa hè trĩu mệt
                  “trong hơi thớ rã mục cúa đêm mất ngú - “đôi chân mang nỗi buồn cúa trái tim
                    như một trưa tháng by
                   Nhà thơ chống lại sự khó nói bằng sự đa nghĩa, đưa tư tưởng thâm nhập vào cơ thế tưởng tượng “đôi chân mang nỗi buồn của trái tim, bước đi vô định trong mùa nắng cháy”.
                   Hay nói một cách khác, thơ là khép kín. Sức mạnh của nó là sự mặc khải quyện lấy xung quanh một ẩn ngữ - thành thử cái điểm của ẩn ngữ ấy tạo ra tất cả thực tại bất lực cúa  sức mạnh chân lí. Trong ý nghĩa này cái kì bí của văn tự thành một mệnh lệnh chính; nên không lạ khi Mallarme duy trì ý tưởng “luôn luôn phải có ẩn ngữ trong thi ca”. Do đó chúng ta phải hiểu những từ “mùa hạ trĩu mệt, hơi thở rã mục, bước vô định, mùa nắng cháy…” bằng tính thực chất sâu xa ở phía sau nó – là cả một thời đại, một kiếp sống đầy khắc nghiệt:chỉ còn mơ về  giấc mơ sắp tới
                            mắt cay xè
                   tỉ mẩn gom trong giọt nước buồn tênh ngày hạn
                   còn giọt hiếm hoi nào chảy trên mặt đất
                    có sống hay cảm thông những giây phút đáng thương đó chúng ta mới thấm thía với sa mạc ý nghĩ của tác giả “ta hóa thành loài xương rồng xanh, mọc lên trong giấc mơ đầy bụi”.
                   Theo chúng tôi, mỗi từ ấy ngoài tính ẩn ngữ còn là một niềm đau tha thiết… để viết tiếp về nỗi buồn “Tháng sáu” cũng là mùa hè… theo lịch là cuối hạ, nhưng với VN nhất là miền trung và bắc là đi vào mùa nắng gắt. “nắng đã dày… thêm lên thành oi bức khó thở, nhưng đáng buồn là cả vấn đề nặng trĩu suy tư. Mùa không còn là mùa của không gian thời gian, mà là mùa của hoàn cảnh của thời thế, mùa của con người ngự trị lắm phiền hà, hay có mưa dông là sấm sét uy quyền. Nói như Heideigger, làm cho con người lo lắng ưu phiền, sợ hãi. Khi thành phố trắng xóa mưa chiều, mưa đây không phải là mưa móc của ân huệ mà là tàn phá xóa sạch bụi bặm của cuộc đời con người.
                   Niềm tin yêu đã không còn, và cuộc sống như người thua cuộc buông tay đầy chán chường… Chân có bước đi như chưa bao giờ tới “chán chường ủ mục dấu chân” (Đi), hay mang nặng nỗi buồn của trái tim như trưa tháng bảy (nơi mùa hạ đi qua). Tuy nhiên hãy nhẫn nhục mà tiếp nhận dù ngang trái quằn quại, lâu rồi cũng thành thói quen, coi cuộc đời như chiếc lá khô ngoài cửa tự đốt dần mòn.
                   Xanh ngày hay ngày xanh còn lâu mới tới, ngày của ước vọng đợi chờ… Tháng sáu mưa hiếm hoi nắng hạn khó có mưa là chuyện của thiên nhiên, nhưng mưa ở đây là mưa của con người, của uy quyền ban bố chỉ dành cho một giai tầng nào đó thôi. Lại đặt niềm tin vào số phận, vào định mệnh… tạo hóa hư không…
                  “lẽ nào  trời đất quên nhau”  vẫn còn quy luật của âm dương, của nhân quả, đời luôn luôn biến thiên, là vẫn còn hi vọng, còn đợi chờ… biết bao kẻ đã ra đi….
                   Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật, kể cả thơ, là cảnh giới tư tưởng, chứ không phải là thủ pháp biểu hiện; nói thế chứ thủ pháp (tức kĩ thuật) cũng rất cần là phải vận dụng sao thật kín đáo mà vẫn thể hiện được chân lí, bài “Đi” là tiêu biểu. Nắng tháng bảy, nắng chói chan, nắng lóa mắt, làm mất cả phương hướng
                   nắng lộng trên đầu – phố nhão dưới chân Nắng bao trùm cơ thể nên phải Đi thôi. Đi như chảy
                   Như mỗi bước rữa tan vào đất Làm tôi không sao quên được câu thơ của đứa em vụng về, mỗi lần gặp nó là tôi như muốn khóc, tiếc rằng “tuổi già hạt lệ như sương”:
                   Phương nam tràn cả nắng - Bao giòng sông quên nguồn
                   Và câu chuyện đau thương ở quê tôi trong thời xa xưa: một em bé khoảng 3,4 tuổi, ngày thường mẹ nó đi hái dâu nuôi tằm hay cho nó đi theo. Dâu trồng trên bãi phù sa cát trắng. Một hôm mẹ nó đi vắng, bỏ em bé ở nhà một mình. Nó cũng cứ nghĩ mẹ đi hái dâu, nên lững thững theo đường cũ tìm mẹ, ngờ đâu khi lạc vào bãi dâu trưa nắng khát nước chồn chân, chắc chắn chỉ có biết khóc gào mẹ ơi mẹ hỡi, rồi gục chết trên cát nóng. Mỗi bước chân đi của Minh Châu tự trói mình bằng tình yêu xứ sở…  Cũng chết chóc đau thương đầy máu và nước mắt… chứ có đâu đơn gỉản chỉ là những ước mơ thiếu thốn hình hài – những  chán chường ủ mục dấu chân – để em gom tất cả những ngày hạ làm món quà dành sẵn… ấm mùa sau  người về.   
                   Sống là sống ở đời, hiện hữu tại thế với cái hành trang phải mang theo là cái Ngã thân xác nặng nề và tinh thần rắc rối phức tạp. Đúng là như “chiếc vali” hơi lạ là mang suốt muà hè mùa của nóng bức oi nồng cay xè mắt… trong hơi thở rã mục… gom những giọt nước buồn tênh (nơi muà hạ đi qua), đúng như Lacan từng nói: có những sự thật không sao nói hoạch toẹt, mà chỉ nói nửa vời, nói bẳng ẩn dụ, bóng gió xa xôi. Người thưởng ngọan cũng phải sống qua cái màn lờ mờ đó “thân cát bụi nằm im nghe ngóng” đúng là thái độ tiêu cực nếu muốn an thân – bài ca “của chiếc lá khô cong mình” hay khom lưng cúi đầu chấp nhận, mà không chấp nhận thì có nước đi đời… chuyển màu đỏ sẫm như mảng máu bầm..
                   May mắn lắm, mà cũng rất hiếm hoi là trong cơ thân của chiếc vali nhét dầy kín kẽ (nào trách nhiệm, bổn phận, tôi đòi cung phụng) còn có chút nguyệt quế nở bung giữa rằm. Nở theo bản năng như mắt phải mở, miệng phải nói, nhưng cũng lén lút trong đêm, như con lân năm mơ tiếng trống trong mộng mị, trong tiếng mưa xối xả… phải hiểu là trong giây phút tự do thầm lén nhét đầy kín kẽ trong góc vali.
                   Một góc nữa cơn gió nhiều ngày dồn lại - len lỏi giữa khe hở của nỗi nhớ nhung chật chội. Ai đã nói (tôi cũng chẳng nhớ) thi nhân là thiên tài của kí ức, chính là sự nhớ nhung tích lủy nhiều ngày, thường là hướng về những nơi chốn hay những liên hệ của một thời đã mất, cầu mong sự liên kết giữa không gian và thời gian; nó là công việc của kí ức.
                   Góc thứ ba là nhân những buổi chiều vắng lặng tự thấy mình vô cùng cô đơn nên đâm sợ hải, bất an, bàn tay lạnh thả tuổi mình bay đi… Nhưng tuổi tác mà bay đi đâu, chẳng qua là hành trang thể xác như biến mất thành hư không, một bóng chim trong môi trường thị giác, một áng mây bay tan biến, một tiếng chuông không vang lên, tất cả hướng về hư vô, hay nói như A. Badiou: đến giây lát ở đó không có gì để nói cả, đây là trạng thái của sự vật, nhưng vật hiện hữu. cái vali của cơ thân hoàn cơ thân xách qua mùa thu…, thời tiết có đổi thay, nhưng con người cũng như thời thế không hề thay đổi. Mùa đây phải hiểu là mùa của tuổi đời, chỉ có thêm đôi mắt đợi chờ những điều biết trước hay đoán trước, với hình ảnh người thương yêu hay lí tưởng cũng thế thôi, thành một cơn điên nhét xuống đáy vali hay đáy lòng có khác gì nhau.         
                   Nói như J.M.Maulpoix, thi nhân không phải chỉ có quay về, nó cũng là người tiến lên, luôn luôn nhiều hay ít trong sự khởi hành sắp ra đi hay đang cất bước, nó kêu gọi và đòi hỏi tương lai, như Oship Mandelstan từng nói: “thi nhân như là cái máy chụp bắt lấy tương lai”. Chưa chụp bắt được thì hãy Đợi chờ tưởng tượng “chuyến đi còn dài lắm, nhưng đi là đủ rồi; những ngọn gió Thái bình dương thổi khô bụi cỏ trong vườn. Từ nào  ở đây cũng mang một nghĩa ngầm như vườn là nhà, là nước… mang mùi thơm dại chạy suốt cuộc hành trình – lúc nào đó ngước mắt lên trời – người sẽ thấy đường chim bay mãi mãi về phương Nam, dù là một phương nam héo úa tan tạ, vẫn muôn thuở với ảnh hình “Việt điểu sào nam chi”.
                                    đã đủ đầy những mỏi mệt chồn chân – đã tan hoang với cơn gió trái chiều
               hay đúng hơn theo hiện đại là “xoắn lại” theo cách thế của cây gậy thần  rượu, một ngọn lửa, một dấu hỏi, cùng lúc nó sống trong hiện tại mà quay về với dĩ vãng và phóng chiếu vào tương lai. Với niềm mong ước là người trở về vẹn nguyên – nhóm một ngọn lửa bằng lá cây khô trước sân; hay chiếc lá từng cong chuyển màu đỏ sẫm như máu bầm, hay chiếc lá khô lăn quăn trên hè phố để đốt những giấc mơ xưa cũ.
                   Ngày nay chúng ta đang đi tìm ý nghĩa của cuộc đời, và ý nghĩa chính đáng nhất vẫn không ngoài ý nghĩa của tình yêu. Nhưng tình yêu là gì?  Nó là đỉnh điểm kết hợp sự điên khùng và khôn ngoan – lời của Edgar Morin. Khi tha thiết thì tha thiết không tưởng nổi… Hãy nghe MC kể lể: …” suốt những năm tháng  tôi đã sống trong một cuộc tình phi lí mà tôi hằng gìn giữ dù không thể nào hiểu nổi… thoảng lúc cái hình ảnh thân yêu trở nên vô cùng lạnh lẽo và xa lạ xô tôi vào miền thinh lặng lảng tránh nhịp thao thức đời sống chính mình… Để thành thơ “Có thể một ngày em mất anh”
                    Là ngày - em không còn nghĩ gì về anh nữa…. vì… đã biết bao yêu thương – cũng chừng ấy chán chường
                   Có thể một ngày em muốn đi trên con đường lạ - có thể một ngày chẳng ai hiểu nổi – ta mất nhau
                    Từ tình yêu đến tôn thờ một lí tưởng có khác gì nhau đâu; mặt trái của yêu thương là chán chường thì mặt trái của lí tưởng là bẽ bàng ê chề thất vọng. nhưng cắt đứt tình yêu thường thì quá dễ chứ muốn thay đổi con đường lí tưởng không phải dễ đâu, nhưng tuyệt từ trong tư tưởng có khi lại dễ hơn tuyệt từ tình yêu, như em gạt bỏ một ước mơ (cứ ngỡ rằng có thật) - gạt bỏ một niềm tin (cứ ngỡ rằng vững chãi).          
                   Tác phẩm nghệ thuật có hiệu lực của một thứ khoảng cách, nó đem cái thế giới hiện thực do tâm linh cảm tính chúng ta tiếp xúc cách li và xua đi, từ đó sáng tạo ra một thế giới cảm tính đầy hư ảo… Đó là hiện tượng “thẩm mỹ trầm tư” khiến chúng ta cách tuyệt với thế giới hiện thực, từ đó tiến vào cảnh cô tịch thẩm mỹ; không có thứ cô tịch này thì không thể nào đạt được cảnh giới tối cao của thẩm mỹ kinh nghiệm, tức là nói cái này mà thực ra là chỉ cái kia. Đó là bộ mặt thật là bản chất tồn tại là chân lí. Trong tác phẩm nghệ thuật còn bao hàm hiệu quả lịch sử, trong quá trình tìm hiểu thẩm mỹ phải biểu hiện một thứ hiệu quả lịch sử. Gadamer nói rõ: “bản văn nghệ thuật mang tính cởi mở, ý nghĩa của nó là vô cùng, do đó mà sinh thành siêu việt thời đại của nó”.  
                   Giờ hãy nói đến Mưa. Nếu nắng trong thơ MC là đau khổ, thì mưa dường như là niềm hạnh phúc, nhưng cũng chỉ là thứ hạnh phúc trong mơ tưởng mà thôi. Do đó về hình thức Mưa lõa thể có cách bố trí như Nắng là toàn bài không viết hoa, ngoại trừ hai chữ là Mùa và sông Hàn. Cũng nên nhớ là mỗi từ, tự trong thơ MC mang nhiều ý nghĩa, nó thay đổi tùy theo bài, theo câu. Như từ Mưa là của đất trời, thiên thần, âm dương hài hòa, mưa cũng là máu và nước mắt của con người, là tinh khí…, hàm chứa bao vẻ đẹp tinh hoa, mưa là ân huệ của cấp trên, của vua chúa ban cho thần dân… Mưa cũng có sức mạnh tàn phá như lũ lụt dữ dội. Mưa lễ tình (valentine) là mùa của tình yêu siêu việt, nó là nguồn tình cảm cao quí vô tận, nhưng lại rớt vào những cơn mưa. Mưa của đất trời tình cờ, cũng có thể đặt nó ngay trong một xã hội, một thế giới kĩ thuật coi vật chất là tất cả. Tình yêu thay vì thăng hoa đã hạ cấp hóa chỉ còn là trò chơi vật chất… Có như thế mới xây xẩm mặt mày - bước chân dạt về phía nào cũng dập dềnh -  gió  -  sóng
                   Nước sông Hàn đục lâu rồi vì nó vắt ngang giữa một thành phố kĩ nghệ hóa, nó vật chất hóa ngay từ chóp bu. Còn chăng vẻ đẹp của tình yêu chỉ có ở những con phố bên kia… mới rực rỡ  đèn hoa kẹo ngọt.
                   gió bắt đầu tạt qua chiều là trở về với thực tại, nơi đây: căn phòng ướt lạnh cái nhìn người đàn bà trẻchới với trong tiếng gào thê thiết của con mèo gọi bạn. Ngôn ngữ thơ ở đây là ngôn ngữ của cơ thể, theo Merleau-Ponty, cơ thể là trung tâm của tri giác, tri giác ở trong cơ thể và là chủ thể, nó là cơ cấu của một thứ sáng tạo tính. Tri giác có tính chất sáng tạo, nhưng nó không phải như cái kính lấp lánh phản ánh đối tượng cảm xúc, mà là tính sáng tạo cấp ý nghĩa cho đối tượng. Cùng lúc nó cũng mang tính trực giác, nó là thứ hoạt động phản tỉnh. Merleau-Ponty cũng xác định: “Nghệ thuật là phô bày biểu lộ chân tướng của sự vật, chân tướng ấy lại tiềm ẩn trong vật chất hiện thực, chỉ thông qua tri giác mới thể nghiệm được sự tối tăm của chân tướng sự vật; cũng là cách thế để bảo trì trạng thái thần thánh của nó. Nghệ thuật phải thông qua phương cách đặc biệt của tự thân mới có thể thấy được đối tượng và biểu hiện được ý nghĩa có thể thấy được đó. Nhiêm vụ của nhà nghệ thuật là khiến cho sự tồn tại của đối tượng không thể thấy thành thấy được, bộc lộ ra chân tướng tồn tại”.
                    Nhờ thế chúng ta mới lí giải được: trong giai điệu hoang tàn của một chiều ướt  nhẹp
                    Sợi sợi mưa lõa thể đẹp như một xác thân đang thời kì hé nở…
                    Nguyên nhân chủ yếu của nghệ thuật là tính ngôn ngữ, bản thân ngôn ngữ là sáng tạo, thủy chung mang tính chất khai phóng, do đó nó luôn luôn biến hóa và là cơ sở kéo dài cách tân. Khi nói đến giai điệu thì phải hiểu là cái gì đẹp đẽ huy hoàng hòa hài biểu hiện bằng màu sắc, bằng âm thanh… của thế giới kĩ thuật văn minh rực rỡ; thế nhưng đó chỉ là cái võ bên ngoài, còn nội tại của nó là cả một thế giới hoang tàn của một cơ thể rã rời sau những giờ phút hoan lạc như một chiều ướt nhẹp. Phải hiểu ngầm từ “ướt nhẹp” là môt từ, nói như người xưa là vô cùng đắc thế của một hiện tượng rã rời tàn tạ của một thứ văn minh kĩ thuật đầy vật chất.
                   Chính trong cảnh hoang tàn đó mới thấy sợi sợi mưa lõa thể đẹp…cái đẹp của cơ thể là siêu việt là tinh hoa nhất trong vạn vật. Phải chăng đó là hiện tượng nghệ thuật, giữa cái thế giới hỗn mang của văn minh vật chất chỉ có nghệ thuật chính xác mới đúng nghĩa của nó mới tồn tại – dù nó có mang nỗi buồn đi nữa cũng vẫn ấp ủ những nỗi niềm hi vọng thanh cao xanh xanh tỏa ra khắp nơi.
                   Tri giác ngoại tại và tri giác của cơ thể tự thân là một như nhau, vì nó là hai mặt của cùng một hành động (M.Ponty). Do đó “mưa lõa thể” chỉ là mở đầu của dòng tình cảm tràn đầy (17 lần nhắc đến trong tập thơ) ở đây chúng ta chỉ nêu ra đôi ba bài tiêu biểu.
                   Từ những nỗi buồn xanh ấp ủ (mưa lõa thể) đến “Kí ức mưa” là nỗi buồn dằng dặc. Mưa ở đây là mưa của đất trời hay đất nước. Nỗi buồn cô đọng (buồn sánh và trong veo) lan tràn giàn trải tràn đầy…
                   chưa bao giờ thấm thía cái lạnh… Một ngày xưa lắc – theo tôi cái lạnh này là tươi mát vắng lặng thanh bình mới nảy ra chuyện lãng đãng trên bấu trời xanh…khiến linh hồn run lên trước sự cẩn trọng và tỉnh táo không ngờ… Một hiện tượng đạt đến như lúc tọa thiền; không lẽ MC cũng tọa thiền ư?
                   Có linh hồn phiêu lưu bằng sự tuyệt đối vô bờ - một lần đứng lại - và trôi đi vĩnh viễn…
                    Để mưa mưa cứ hoài nỗi buồn ngốc dại, mưa giờ đây không phải của đất trời thiên nhiên mà là của con người… mãi mãi chiếm cứ nỗi buồn khờ dại, nhớ thương lặng lẽ ướt át như sự ướt át tháng tháng giao mùa (đúng là ngôn ngữ của cơ thể). Có thế mới lí giải được “em vẫn tiếp tục những mong đợi xa xôi – tưởng tượng và bôi xóa - về những điều không thuộc ranh giới đúng / sai.
                   Bất cứ sự tồn tại nào đều phải mang tính chất yêu thương và câu cuối bao giờ cũng đầy tính hấp dẫn:
                   Như đã bao lần – em giấu rất nhiều cách nhìn về anh – khi tự dìu mình về một trời mưa khác…
                   Mưa này lại là mưa của thời đại, của xã hội, và anh phải hiểu là hình ảnh của lí tưởng… nhưng với MC thì cũng có một người yêu bằng xương bằng thịt, cũng có thể là người đã mang đi rất nhiêu cơn mưa
                   Ý nghĩa của một tác phẩm văn học cũng như một bài thơ chỉ có thể hiểu được nếu người ta chấp nhận cái hình ảnh đặc biệt tạo nên ý nghĩa ấy (B.A. Hirsh). Như mưa ở đây là mưa thuộc lãnh vực nội tại, mưa của bản chất thần thánh của thiên nhiên tạo hóa tự do. Nó là  nhu cầu là nguồn sống cấp thiết của vạn vật của con người không sao diễn tả hết được. Chữ Người ở đây cũng vô cùng rắc rối, vừa có tính cá thể, vừa quần thể, một giai tầng, một tầng lớp đủ cả. Có thế mới mang cả tiếng vọng của cơn dông ì ầm ngoài biển; thật ra là một hình ảnh khá đẹp, nhưng chưa đủ để nói lên những hãi hùng sóng gió bão tố lẫn với bao đau thương thảm khốc… Để lại nơi này mùa hạ đỏ hoe đôi mắt, cái không gian sục sôi nóng bức đã biến ngày thành đêm, cõi dương đã thành âm đến nỗi mình cũng không còn nhận ra mình (ta lạc mất dáng mình trên từng lối đi quen). Dạo quanh phố như tìm kiếm vật gì, mà có vật gì đâu để tìm, chẳng qua chỉ đi lơ ngơ láo ngáo – nghe  nỗi buồn vây quanh – con đường lạnh tanh một niềm hất hủi…
                   Phải chăng vì không hòa mình được với quần thể cuộc sống trở thành lạc loài. Cả đến giấc mơ cũng bị mang đi, nghĩa là mọi mơ ước cũng không sao mơ ước được. Nếu giữa khuya mà giật mình thức giấc là thức  luôn để nghe bao nhiêu phiền toái quấy rối, như tiếng chuột cắn xé giấc ngủ…Cuộc sống lạc loài còn đở, đằng này sống không ra sống, chết không ra chết, vì ban ngày thì công vệc bề bộn: tất bật bàn phiếm giấy tờ, bàn tay, ánh mắt, bước chân nhòa vào dòng người đổ xô – từng phần cơ thể bỗng thành kẻ khác – đêm ngưng lại những câu chuyện mùa hè... (ngày và đêm).
                   Nhưng nội dung thơ “Có Thể” không phải chỉ có Nắng và Mưa, mà còn lắm vấn đề, đăc biệt là đời sống nội tại tâm linh với những u uất khôn giãi bày. Trước tiên là tính kiên cường của giới nữ trong thế kỉ 21, nó không còn nhu nhược yếu đuối trong đau thương mà vẫn tỏ ra chịu đựng vững vàng trước những biến cố:
                   Khi anh gạt em ra ngoài cuộc sống của anh - em như con chim trúng tên – chấp chới bay đi với đôi cánh gảy – Đã một lần đau - thêm một lần ứa máu – cứu em – không phải thời gian làm lành vết thương - mà lòng kiêu hảnh. Tình yêu là nhát dao chém thẳng – vết sẹo suốt đời cưu mang
                   Khi anh gạt bỏ…cây vẫn xanh và hoa vẫn tím trời Em gạt bỏ ước mơ -  gạt bỏ niềm tin – (dù có) thêm một vết sẹo dài.
                   Mới thấy cái uy nghi của một thiếu nữ trong thời đại mới; dù rằng trong tâm tư như đang chết dần… trải qua bao tháng năm vẫn sống trong một cuộc tình phi lí mà tôi hằng gìn giữ…Không có gì đau bằng: thoảng lúc cái hình ảnh thân yêu trở nên vô cùng lạnh lẽo và xa lạ xô tôi vào miền lặng thinh lảng tránh nhịp thao thức…(Tan vào buổi chiều). Để thấy rõ từng phần cơ thể như rã tan vào không gian. Nhưng khổ thay các triết gia hiện đại lại nói rã tan là tồn tại, là hiện hữu, vì vô là hữu. Đên nỗi cuộc đời không còn biết bắt đầu từ đâu, và kết ở đâu. May mắn là có chút tâm hồn thiên phú, si mê nghệ thuật, biết lắng nghe thanh âm rối bời trên đường phố, nghe cây hát, biết ngắm những sắc màu chuyển động trên lá bàng.
                   Biết điên khùng của yêu thương và bận rộn của âu lo (không biết bắt đầu từ đâu và kết thúc từ đâu). Không lẽ MC cũng ý thức được tình yêu mang một mâu thuẫn đặc biệt, đó là sự hiện diện của điên khùng và khôn ngoan. Cái đẹp của tình yêu chính là sự biểu hiện cái chân lí tự ngã qua kẻ khác hay ngược lại, là xuyên qua tha nhân thấy chân lý bản thân (E. Morin). Hay nói như  Morin, sự khôn ngoan và điên cuồng không những chẳng bao giờ xa nhau, mà còn tự sinh sản lẫn nhau. Như chúng ta biết thi ca không chỉ là cách thức diễn tả văn chương, mà còn là trạng thái bất bình thường, đưa chúng ta đến chia xẻ, cuồng nhiệt, kinh ngạc thán phục sự cảm thông, sự say sưa, sự phấn khởi, và chắc chắn rằng tình yêu chứa  đựng nơi nó tất cả những cảm nghĩ của trạng thái bất bình thường. Ý nghĩa của thi ca và tình yêu là ý nghĩa có phẩm tính cao cả trong cuộc đời. Nó ràng buộc đời đời âu cũng là định mệnh, là nghiệp chướng. Nên “trong thành phố mùa đông” - mùa của lạnh lẽo cô đơn, đêm thành phố không anh – thành phố tình tự với dòng sông sâu thẳm – dòng sông ôm chặt vào lòng dịu dàng như chiếc chăn đêm…Hay khi thời tiết báo hiệu xuân về em cũng nghe lòng rộn ràng… Em vẫn nhìn anh bằng ánh mắt mùa xuân năm trước – nghe hơi ấm quanh mình – em mang về căn phòng và trải lên chăn (bài thơ ngày giáp tết)
                    Để rồi có đêm nào như đêm này – mưa  ướt nhẹp - em ôm tay mình dỗ dành bằng giấc mơ về đốm lửa –
                   Cháy trong mắt anh ngày xưa (Đốm lửa). Sức mạnh của ngôn từ là thi ca, nó không có chức vụ nào khác là vẫn bất lực là nêu ra chức danh chính xác. Tư duy tích cực cũng không thể chỉ xuất đích danh sức mạnh ấy, bài thơ luôn luôn ở trạng thái phi tạo tác (Alain Badiou). Đây là cái tâm trạng rối rắm của cả cuộc đời tác giả, dù chưa phải dài chi cho lắm, chỉ mới hai mươi mấy năm trời, chung qui cũng chỉ có tình yêu là chính yếu, bao sự kiện bao nỗi niềm dở dang… chỉ muốn xóa đi… Đôi mắt của bức ảnh treo trên tường với những ám ảnh cô đơn…những giọt nước mắt lỏm sâu kỉ niệm - cái bóng của đêm tối – như tan vào bụi – trên tay tôi - thành một mớ bòng bong - chẳng bao giờ gở nổi – những mộng mơ nằm lặng thinh như cái chết – (Xóa) Nhưng nói như Heraclite “chết để sống, sống để chết”.  Những phân tử của chúng ta thoái hóa và chết đi bằng cách sử dụng cái quá trình phân hủy làm chúng ta trẻ lại. Ái tình cũng vậy nó chỉ tồn tại bằng cách luôn luôn tái sinh. Tình yêu chính là tái sinh thường trực tình yêu bẩm sinh, tất cả cái gì xây dựng thành xã hội, tất cả cái gì được tạo lập trong đời bắt đầu phải chịu sức lực tan rã hay biến thành nhạt nhẽo. Vấn đề gắn bó trong tình yêu thường là bi kịch (E. Morin).
                    Công việc tìm hiểu thơ Có Thể của tôi đến đây cũng có thể gọi là tạm đủ. Trước khi dừng viết, với tính chất cắt dán, để kết thúc cho bản văn tôi lại mượn lời của Maulpoix để nói rằng: “Sự nhận thức thi ca không phải chỉ là sự suy tầm một ánh sáng trong đêm tối, mà là những bóng tối trong ánh sáng, nó thấy xa xa những hình thể nhợt nhạt yếu đuối, nó biết rằng có lắm điều bí mật trong vũ trụ mà có lẽ đã bị che giấu bắng cái áo khoác của ánh thái dương. Nó không hề tìm hiểu ý nghĩa của sự kì diệu, mà chỉ tìm hiểu sự khó hiểu hằng ngày. Tất cả cái nhìn với nó là nhân sư (sphinx), tất cả ngôn từ đều là vu thuật khó hiểu, mỗi một cọng cỏ, mỗi một thân cây đều chứa đựng thần thân hữu hay hung ác. Thái dương chì 1à ánh sáng hư vô và trên chiếc lá hiển hiện sự trắng bạch, ngòi bút mà nó thường dùng không hề quên noi theo đường gân của hố thẳm.
                    Và cuối cùng để có một nhận xét về thơ của MC lại  phải mượn lời của Kim Thánh Thán mà nói rằng: Thơ là lời chân tình, chân ý, chân tâm của người mà thôi; không có sự chân thành thì không phải là thơ. Vậy tập thơ Có Thể dù mỏng manh cũng đạt được sự chân thành đáng yêu.
                  
                  (9-2012)
   
                 

Thứ Bảy, 8 tháng 9, 2012

bài chủ nhật số 4 - nguyễn đăng trình * thơ













phía sau gương mặt thiên thần
một con ác quỉ chầng ầng nhe nanh
điêu ngoa - xảo quyệt - gian manh...
trò ma nào cũng thập thành cao siêu

yêu em chưa hẳn là yêu
từ thời nông nổi trót liều đưa chân
chán – buồn – khinh – ghét… vân vân...
bỏ thương vương tội già nhân nghĩa hời

cuộc tình đất hỡi trời ơi
đùng đưa nay ngược mai xuôi chán phèo
hệt như xem diễn tuồng chèo
hạ màn xong vẫn còn eo éo buồn!…

Thứ Hai, 3 tháng 9, 2012

vợ chồng nghèo không tham của rơi trị giá hơn 300 triệu đồng - phú thuận


Trong những ngày qua, nhiều người dân trên địa bàn huyện Tháp Mười và trong tỉnh Đồng Tháp không ngớt lời biểu dương và khen ngợi sự tốt bụng của vợ chồng ông Huỳnh Hoàng Nam (sinh năm 1962) - Nguyễn Thị Mai (sinh năm 1963) ở ấp Mỹ Tây 1, xã Mỹ Quý, huyện Tháp Mười.

Vợ chồng ông Huỳnh Hoàng Nam và cháu ngoại

Cách đây hơn 1 tháng trong một lần đi công việc bằng xe đạp, vợ chồng ông lượm được 1 cái bóp có tiền và 1 thỏi vàng với tổng trị giá hơn 300 triệu đồng. Vợ chồng ông bà tìm được số điện thoại của người bị mất tài sản, sau đó gọi báo cho chủ nhân đến nhà và trả lại toàn bộ số tài sản trên.

Cảm động vì sự tốt bụng của vợ chồng nghèo đang phải sống trong căn nhà mái lá xiêu vẹo, nhỏ bé, chủ nhân của số tài sản trên vốn là một chủ tiệm vàng lớn ở huyện Tháp Mười gợi ý cất một căn nhà tươm tất cho gia đình ông để cảm ơn, nhưng vợ chồng ông một mực từ chối vì đối với gia đình ông Nam đó là việc làm rất giản đơn bất cứ ai cũng có thể làm được.

Vừa qua, UBND tỉnh đã quyết định tặng Bằng khen nhằm để biểu dương việc làm tốt đẹp của vợ chồng ông Huỳnh Hoàng Nam.

---------------------------
* nguồn: nguoilaodong

Chủ Nhật, 2 tháng 9, 2012

đợi tàu ngược – ý nhi * truyện ngắn



   Nhà ga nằm trên một nền đất khá cao, so với nơi đỗ tàu. Đó là một gian phòng hình chữ nhật, có 4 cửa đối diện với nhau, 2 cửa để ra tàu và 2 cửa cho khách xuống tàu. Các cánh cửa đều có màu xanh biển, màu đồng phục của tất cả các ngôi nhà, các công sở, các trường học một thời. Ở khoảng giữa phòng có mươi chiếc ghế gỗ, kê song song thành 2 dãy. Trên chiếc ghế sát tường có 1 người đang nằm ngủ, đầu gối lên chiếc túi vải màu cỏ úa, chân co lại, chiếc mũ cối ôm khư khư trước bụng. Ba người còn lại, một thiếu nữ, một thanh niên và 1 ông cụ râu tóc bạc phơ, mỗi người một ghế, lơ đãng nhìn anh, người khách mới. Họ bình thản như kiểu sau một ngày làm việc, ngồi trên thềm nhà ngó mung lung ra mảnh vườn quen thuộc của mình, xem chim chóc chuyền cành, nhìn gió bay lá rụng vậy. Anh đến bên ông cụ, nhà ga có báo lúc nào tàu đến không ạ. Ông cụ không đáp, ngoảnh mặt về phía chiếc bảng ghi giờ tàu. Trên tấm bảng, anh nhìn thấy mấy hàng chữ lớn bằng phấn viết đè lên các dòng kẻ. Anh cố đọc nhưng ngoài 2 chữ Thông báo, anh không sao có thể đọc được những nét vẽ ngoằn ngèo kỳ lạ đó. Anh lẩm bẩm, chữ nghĩa gì mà như ma vầy thế. Ông cụ đưa cả bàn tay lên che miệng, suỵt, chớ nói năng phạm thượng ở nơi này. Anh quay lại, nhận ra nỗi sợ hãi trong mắt ông. Anh hỏi, cụ đợi tàu xuôi hay tàu ngược ạ. Ông cụ đang  mải lục tìm thứ gì đó trong chiếc túi vải bạt sờn cũ, không còn rõ màu, quay lại, ánh mắt đã trở nên bình thản, tôi có đợi gì đâu. Tàu xuôi, tàu ngược thì ăn nhằm gì đến tôi. Ông lôi ra một chai rượu có dán nhãn Lúa mớinhưng lại được nút bằng một nùi lá chuối khô. Có lẽ, Lúa mới chỉ là cái vỏ còn rượu trong chai là thứ rượu mà mọi người thường gọi là rượu cuốc lủi, nấu ở các lò thủ công. Đặt chai rượu sang bên cạnh, ông lại khoắng tay vào túi, vẻ bí mật  như kiểu các nhà ảo thuật thường làm nhưng thay vì lôi ra một hoặc hai con bồ câu trắng muốt để tung lên trời, ông lại lôi ra  2 chiếc cốc thủy tinh lợn cợn hạt, đã ngả sang màu nâu đất, một chiếc đĩa bằng thiếc mỏng, một gói lạc rang, một gói muối ớt, một quả dưa chuột, một con dao nhỏ, lưỡi mòn vẹt.  Bàn tay ông cụ đen đúa, nổi gân chằng chịt, hơi run run khi mở nút chai, rót rượu vào hai chiếc cốc. Xong xuôi, ông từ tốn vấn lại nùi lá vàng úa tả tơi, tém gọn những mảnh nhỏ thò ra ngoài, xé bỏ những mảnh đã mục để có một chiếc nút gọn gàng, xinh xắn. Ông vừa lấy ngón tay cạy cạy chỗ nhãn mác còn sót lại trên vỏ chai vừa nói, thứ rượu  này chỉ hợp với cái nút bằng lá chuối khô thôi. Đậy chiếc nắp kim loại lên trông chẳng ra ngô ra khoai gì ráo, cứ như mặc đồ bộ mà đội khăn đóng vậy. Nói cậu đừng để bụng, anh Lúa mới này chỉ được cái đẹp mã, uống thì nhạt toẹt, tệ hơn nước lã. Ấy là của thằng con đem về dịp giỗ mẹ nó chứ tôi chẳng dại bỏ tiền ra mua. Mà ngẫm ra thì tất tần tật mọi thứ ở đời cũng là bởi thói quen thôi cậu ạ, ví như cái sự uống chè ở làng tôi đấy. Làng tôi là làng trồng chè. Người ta thu mua hàng tạ hàng tấn, sao chế toàn bằng máy móc hiện đại, đóng gói, đóng hộp đẹp đẽ, xuất đi ta bà tứ xứ, nghe đâu được thiên hạ khen nức nở, thế nhưng tôi và nhiều nhà trong làng chỉ uống thứ chè trồng ở vườn, sao bằng cái chảo gang sứt mẻ, pha bằng nước giếng mới thấy thấm thía. Anh không đáp lời ông cụ bởi chỉ nghe tiếng được tiếng mất, câu chăng câu chớ, lòng chợt buồn rười rượi khi nhìn ông tự bày biện mâm nhậu sơ sài của mình giữa cái nhà ga hiu hắt như tách rời khỏi thế gian này. Ông cụ nheo mắt nhìn anh hồi lâu rồi xoa tay vào nhau, khà một tiếng thật to, ra vẻ khoan khoái, mời cậu. Ông nhoài người, đặt chén rượu vào tay anh, rượu xịn đấy, cậu đừng sợ. Uống với  nhau một chén, khề khà vài câu mới  nên bạn nên bè được. Rồi tôi sẽ nói cho cậu biết tôi đợi gì ở nhà ga này. Ông nuốt ực chén rượu, im lặng một lúc rồi đặt đánh cạch cái chén xuống mặt ghế, giọng dứt khoát, tôi không đợi tàu. Làng tôi chỉ cách đây non cây số. Cả đời tôi chưa ra khỏi đất này. Anh nhấp một chút rượu đáp lễ, nghe tê tê nơi đầu lưỡi, mắt không rời khỏi ông cụ, cố hiểu câu nói của ông. Ông cụ bỗng cất tiếng cười, một tiếng cười khô khan, rời rạc, cậu đoán làm sao nổi. Mà tôi có đánh đố cậu đâu. Tôi không ưa đánh đố người khác, làm cho việc nhẹ thành nặng, việc dễ thành khó, chẳng ích chi. Ông mở nút, rót thêm rượu vào ly nhưng không uống, mắt nhìn lạc đi đâu đó, ngoài xa kia, quá tầm nhìn của anh, tôi ra đây chỉ vì bà nhà tôi mất ở đây, ở ngay cái ga này này. Hôm đó, đi làm về, bà nhà tôi tạt qua ga tìm mớ cỏ mực để về rịt vết thương cho thằng cháu nội. Không hiểu làm sao mà thứ cỏ ấy lại mọc um tùm lấn hết các loại cỏ khác ở đây. Cả làng, ai cần cũng ra vặt mà chúng vẫn xanh um, tươi tốt quanh năm. Cậu có biết loại cỏ đó không. Vò ra, nó có nước màu xanh đen. Có lẽ vì thế mà người ta gọi là cỏ mực. Đó là thứ thuốc quý cậu ạ. Trẻ con bị trắng lưỡi, vò ra, lấy nước rơ lưỡi vài lần là hết. Người nóng nảy rôm sảy, vò tươi để tắm hoặc phơi khô sắc nước uống. Ai trầy tay sướt chân, nhai mấy cộng lá, đắp vào vết đau là yên trí sẽ liền da liền thịt. Hôm đó, thằng cháu vô ý dẫm vào con dao thái chuối mẹ nó để quên ngoài sân, rách một đường ngay chỗ gót chân. Bà ấy đi lấy cỏ mực cho cháu. Ai dè, chiều muộn rồi mà chúng còn đi thả bom. Chúng muốn phá cái nhà ga này nhưng khốn nỗi, ga chỉ rơi vài viên ngói còn bà nhà tôi và 2 đứa trẻ chăn trâu thì trúng mảnh, không cứu được. Từ cái ngày oan nghiệt đó tôi thấy như có một sợi dây ràng rịt chân tay tôi, tâm trí tôi với nơi này. Phần mộ của bà ấy ở nghĩa trang của làng nhưng tôi vẫn muốn ra đây, cứ như nghe thấy bà ấy gọi vậy. Ngày nào có việc bận, không ra được, lòng tôi bồn chốn lo lắng, đứng ngồi không yên, cả đêm trằn trọc, chốc chốc lại dậy châm đóm hút thuốc, mong cho chóng sáng. Tôi ra đây, uống vài chung rượu, đợi lúc mặt trời sắp lặn, được nhìn thấy bà ấy đang lúi húi chỗ vạt cỏ xanh rì kia, mới yên ổn ra về. Ông cụ nấc lên, rồi ho khan một lúc lâu, mặt đỏ rựng, mắt dân dấn nước, trời ơi, bao nhiêu người đi lấy cỏ mực, sao chỉ mình bà ấy gặp nạn. Nghĩ rằng ông cụ sẽ ngưng câu chuyện, anh định đứng dậy thì nghe ông hỏi, cậu có vợ chưa. Nhưng ông cụ không đợi câu trả lời, ông nói nhỏ, mặc cho thiên hạ nói sao thì nói, tôi thì nghĩ, người phụ nữ mới là trụ cột của gia đình cậu ạ. Người đàn bà tử tế thì cái gia đình ấy tử tế, người đàn bà hư hỏng thì cái gia đình ấy hư hỏng. Phải quấy, vui buồn, hay dở đều ở nơi họ. Ấy vậy nên khi nhà tôi mất, gia đình tôi như nghiêng ngả, liêu xiêu, không sao gượng lại được. Nó lỏng lẻo như người không có cột sống, như chân tay không có khớp xương vậy. Tôi xù lông xòe cánh che chở cho hai đứa con, đến khi chúng khôn lớn thì tôi sụp hẳn, lại còn mắc chứng nghẹn, chẳng nuốt nổi cơm. Mỗi ngày chỉ vài hột lạc, vài xị rượu là xong bữa. Ở làng tôi, cứ 10 nhà lại có 1 nhà nấu rượu. Rượu gạo, rượu nếp, rượu sắn, rượu ngô…đủ cả. Gọi là rượu lậu nhưng lại bán công khai. Cả làng cả xã uống rượu thì chả công khai là gì. Tôi vẫn gặp thằng cu con lão chủ tịch đến lấy rượu đấy thôi. Tôi hỏi nó, lấy làm gì nhiều thế. Nó bảo, có các bác ở huyện về. Sự thể là thế đấy cậu ạ. Nhưng tôi chỉ lấy rượu của lão Khả, người xóm dưới. Rượu của lão lạ lắm, uống xong, người nhẹ nhàng lâng lâng như ở cõi khác vậy, quên hết ưu phiền, mệt mỏi. Đã đành, cũng chỉ là một cách lừa mình thôi nhưng ai mà chẳng có lúc cần như vậy. Mãi rồi đâm thành tật, không uống không chịu nổi. Mà cậu uống đi chứ. Đàn ông dứt khoát là phải biết uống rượu. Để làm gì hả, thì tôi nói rồi, để tự lừa mình ấy mà. Đàn bà không uống rượu vì họ không cần điều đó. Anh lại nhấp môi vào chén rượu. Ông cụ hất cằm, khoe mấy sợi râu phơ phất, mà sao cậu lại lưu lạc đến xứ này. Nhìn cách cậu cầm chén rượu, tôi biết ngay cậu là dân thành phố. Dân quê không điệu đà được vậy. Anh mỉm cười, cúi nhìn ly rượu được kẹp hờ hững giữa ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa, ngón đeo nhẫn và ngón út hơi cong lên, cháu về quê dạy học cụ ạ. Ông cụ đập tay vào trán, ấy đấy, dân quê thì lại ào ào kéo ra thành phố. Con trai, con rể, cháu nội, cháu ngoại tôi bỏ làng đi hết ráo. Làng tôi bây giờ chỉ còn rặt người già và trẻ nhỏ. Nháo nhào hết cả. Sao đời khổ thế nhỉ. Mấy chữ cuối cùng nghe đã nhừa nhựa, mắt đã hơi díu lại nhưng ông cụ vẫn thoăn thoắt thu dọn mấy hạt lạc, chút muối ớt cho vào túi ni-lon, buộc lại cẩn thận. Ông còn vặn đi vặn lại cái nút chai lá chuối xem đã kín chưa rồi cho tất cả vào chiếc túi vải bạt. Chai rượu đã vơi khoảng một phần tư. Anh đồ chừng, ông cụ đã mời rượu nhiều người, đã nói đi nói lại câu chuyện với nhiều người ở nhà ga này. Ông cần nói hơn là cần người nghe. Lúc không có ai để trò chuyện, ông sẽ nói một mình, vừa uống rượu vừa nói, vừa đặt ra câu hỏi vừa tự trả lời, rồi cười, rồi khóc. Anh đứng dậy, nói như dỗ dành, bác ngả lưng một chút cho đỡ mỏi, cũng quá trưa rồi. Ông cụ lấy khăn phẩy bụi trên chiếc ghế rồi quay lại, nghe như cũng sắp có tàu. Mà cậu đợi tàu xuôi hay tàu ngược. 

      Anh đợi tàu ngược, ga cuối cùng. Đó là nơi Tứ, em cùng cha khác mẹ của anh đang sống. Hồi anh lên bốn, đang ngồi chơi với chị Vân và anh Hải ở trước nhà thì bố anh đưa Tứ về. Ông bảo, em của các con đấy, cho em chơi cùng nhé. Tứ là một đứa trẻ mảnh khảnh, có đôi mắt to hơi buồn. Tứ ngồi xuống bên mọi người, im lặng cho đến khi mẹ gọi cả bọn vào ăn cơm. Mãi sau này, khi đã lớn, anh mới biết Tứ là con riêng của bố và một phụ nữ khác. Nghe nói mẹ Tứ rất đẹp. Bố say mê bà nên đã giấu việc mình có vợ con ở quê. Khi biết chuyện, mẹ anh dứt khoát đòi đưa Tứ về để bà nuôi dưỡng, dạy dỗ. Không hiểu bà khuyên giải thế nào mà mẹ Tứ bằng lòng giao con và xa hẳn bố anh. Mẹ anh chăm nom, thương yêu Tứ chẳng khác gì các con ruột của mình. Dù vậy, Tứ rất ít lời và luôn giữ khoảng cách với mọi người trong gia đình, nhất là với mẹ anh. Tứ vâng lời, lễ phép nhưng không bao giờ vòi vĩnh, nũng nịu với bà. Anh Hải, người sau này trở thành một nhà vật lý, cho rằng, trong con người Tứ có một lực đẩy nào đó mà có thể chính nó cũng không tự biết. Chị Vân, vốn là người yêu văn chương, thì lại bảo, nó không muốn người khác nhìn thấy vết đau của mình. Tứ thân với anh vì hai anh em chỉ cách nhau vài tháng tuổi và cũng vì anh rất thương yêu, chiều chuộng Tứ. Nhiều lần anh thấy Tứ đứng một mình trước cửa hoặc tha thẩn ngoài vườn sau, vẻ mặt buồn bã, trống vắng. Thế nhưng nếu anh hỏi tới, thế nào Tứ cũng lảng chuyện rồi bá lấy vai anh, cười gượng gạo hoặc rủ anh đi câu. Tứ có thể ngồi vài tiếng đồng hồ bên đầm, mắt nhìn đăm đăm xuống mặt nước, không nói một lời. Có lần Tứ câu được con trắm to, đem về cho mẹ anh. Bà  mừng lắm, rối rít hỏi Tứ muốn ăn món gì để bà nấu nhưng Tứ chỉ nói, tùy mẹ ạ. Tùy, sao cũng được là lời đáp thường xuyên của Tứ. Hồi tốt nghiệp phổ thông, bố tặng Tứ một bộ đồ đi câu và tặng anh một chiếc máy ảnh. Tốt nghiệp đại học, Tứ xin đến X. Trong bữa cơm chia tay, Tứ cám ơn mọi người và hứa sẽ giữ liên lạc. Thế nhưng, từ ngày bố mẹ qua đời, Tứ chỉ còn giữ liên hệ với anh. Cách đây vài ngày, vợ Tứ  ra trạm kiểm lâm, gọi nhờ điện thoại báo tin chồng ốm nặng. Với vốn tiếng phổ thông ít ỏi, cô không sao có thể diễn đạt rõ ràng bệnh trạng của chồng, ngoài việc lặp đi lặp lại mấy chữ nặng lắm, lo lắm sau những tiếng thút thít, những tiếng nấc khe khẽ. Vợ Tứ là một cô gái mồ côi, không biết từ đâu lưu lạc tới X rồi được vợ chồng một người Mông nuôi dạy. Cô xinh xắn, hiền hậu và cũng rất ít lời, gần như cả ngày chỉ nói vài câu khi thật cần thiết như mời mọi người ăn cơm, uống nước hoặc chào hỏi khách khứa. Phần lớn thời gian, cô ngồi bên đống lửa, nhìn chăm chăm vào mấy thanh củi cháy dở như đang niệm chú hoặc đang nhìn ngắm một thế giới khác, của riêng cô. Hồi họ đám cưới, anh có lên dự. Anh nhìn Tứ, cố tìm một nét hân hoan, bối rối của chú rể nhưng chỉ nhận thấy vẻ bình thản đến lạnh lẽo trên khuôn mặt thanh tú. Tứ tiễn anh ra ga. Trong lúc đợi tàu, hai anh em đứng tựa vào hàng rào gỗ của nhà ga trò chuyện. Anh hỏi Tứ, sao em chọn nơi này. Tứ đáp, em cần sự yên tĩnh. Con người chất phác, cảnh trí thâm u, vắng lặng, đó là tất cả những gì em cần. Anh nghĩ, vợ Tứ cũng được lựa chọn theo cái chuẩn ấy. Khi anh sắp lên tàu, Tứ bỗng nói, mẹ em cũng mất rồi, sau mẹ cả ít lâu. Em kịp về thăm mẹ mấy ngày. Em có 2 người em nữa nhưng em không thích bố dượng nên cũng ít liên hệ. Anh giật mình, Tứ biết tất cả mọi chuyện sao. Tứ đáp, vâng, rồi im lặng cho đến khi bắt tay từ biệt mới nói thêm, tội nghiệp mẹ, cả đời chẳng được mấy ngày vui. Khi tàu chạy, anh nhoài người ra ngoài khung cửa tìmTứ. Nhiều năm sau trong tâm trí anh vẫn lưu giữ hình ảnh nhỏ bé, đơn chiếc của Tứ trên sân ga. Chưa khi nào anh thấy Tứ thân thiết với mình như buổi sáng ấy ở ga X, một nhà ga làm bằng những thân gỗ lớn, không sơn phết, đẽo gọt. Giờ đây, khi ngồi thu mình trong góc phòng để đợi tàu, vừa nhắm mắt anh đã lại nhìn thấy Tứ của buổi sớm mùa đông ấy. Anh choàng dậy, lục tìm gói thuốc mua cho Tứ. Chỉ là những viên thuốc bổ xoàng xĩnh có được ở phố huyện. Anh thở dài, cảm thấy rã rời vì chờ đợi. 

      Trời đột nhiên tối sầm lại rồi một tiếng sét dữ dội xé tan không khí tù đọng của nhà ga. Ông cụ choàng dậy, mưa à. Sao lại mưa vào mùa này. Đôi nam nữ lúc này đã dồn vào một ghế đang rủ rỉ chuyện trò cũng rời nhau ra, ngơ ngác nhìn quanh. Người ngủ bật ngồi dậy như người máy, đội mũ lên đầu, khoác túi lên vai. Ông cụ khoát tay, chưa, chưa có tàu đâu. Tàu đến thì cách cả cây số lão cũng nghe thấy. Ông chỉ tay về phía tấm bảng, thông báo rành rành kia kìa: vì lý do đặc biệt:1.Không biết tàu đến vào lúc nào. 2.Không biết sẽ chạy được đến đâu. Anh quay lại, không hiểu sao dòng chữ rõ ràng từng nét thế kia mà sáng nay anh không thể nào đọc được. Anh hỏi, thế nhân viên nhà ga đâu ạ. May ra họ có thể giải thích rõ hơn cái thông báo kia. Ông cụ chỉ tay sang phía bên phải, ở kia, ở cái chái nhà ghép thêm kia. Rồi ông thủng thẳng, gọi là nhân viên nhà ga cho oai vậy chứ thực ra chỉ có 3 mống, một trưởng ga, một bán vé kiêm soát vé, một bẻ ghi, phất cờ. Đang túm tụm đánh chẵn lẻ bên ấy. Rồi ông thở dài, chứ còn biết làm gì nữa. Nắm hai bàn tay lại, đưa ra trước mặt người đối diện, chẵn hay lẻ. Một trò ít tốn kém, đơn giản, buồn tẻ nhưng cũng không dễ ăn đâu cậu. Làm sao biết có những gì trong tay người khác. Nó là may rủi thôi, như mọi thứ ở cái đời này. Ông quay sang anh, cậu đã chơi trò này chưa. Tôi có đồ nghề đây. Đôi lúc buồn quá, cũng qua đó chơi vài ván. Ông cụ lôi từ túi quần ra 5 viên bi, tráo qua tráo lại rồi hỏi anh, bên nào chẵn, bên nào lẻ. Nhận thấy mắt ông cụ đã lại hoe hoe đỏ, anh không dám tiếp tục câu chuyện, xin lỗi bác, cháu phải chạy đi tìm trưởng ga. Ông cụ ngẩng lên, chỉ tay ra ngoài trời mưa, ông ấy kia, sắp có tàu đấy. Theo hướng tay ông, anh nhìn thấy một người mặc áo mưa kín mít đang co một chân lên, nhảy qua các thanh tà-vẹt, kiểu như trẻ con nhảy lò cò qua những ô vuông kẻ trên mặt đất trong trò chơi  nhặt chì trước sân đình. Trong màn mưa dày đặc, hình ảnh đó có cái gì kỳ quặc, hư ảo khiến người ta cảm thấy hoang mang, lo ngại. Nhưng quả là có tiếng còi tàu rít lên đâu đó rất gần. Cả 5 người ào ra, chen nhau chỗ khung cửa hẹp. Một cái đầu tàu to lù lù chạy vụt qua, chỉ để lại tiếng bánh sắt nghiến sát sao trên đường ray. Tất cả cùng à lên thất vọng. 

      Anh hỏi Người ngủ, anh ngược hay xuôi. Hắn vừa ngáp vừa trả lời cụt lủn, xuôi, rồi quày quả đi về chiếc ghế của mình. Thấy hắn đặt túi, bỏ mũ xuống, anh chạy vội tới, ở đây có cách nào khác để đi ngược lên X không. Hắn nhìn anh, đáp gọn lỏn, xe trâu. Tưởng hắn đùa nhưng hắn không cười, ánh nhìn nghiêm nghị, chỉ có xe trâu thôi, đi từng đoạn một, tới đâu hay tới đó. Mà cậu lên X làm gì, cái xứ rừng thiêng nước độc. Thấy hắn có vẻ khó chịu, anh đã định bỏ đi nhưng rồi lại quay lại, cố bám lấy cuộc trò chuyện. Cảm giác cô độc, bất lực khiến anh thấy băn khoăn, lo sợ, muốn nói, muốn nghe một ai đó, muốn tìm một hy vọng hay ít ra, một chia xẻ. Anh hỏi, anh biết X ư. Người kia ngồi, ôm chiếc mũ trước bụng, biết đến phát sốt phát rét khi nhớ đến nó. Tôi ở đó 3 năm 3 tháng 11 ngày, làm thợ xẻ gỗ. Cậu có hiểu như thế là thế nào không. Là một mình với cái cưa, một mình vật lộn với cây cỏ, rừng rú, đất dưới chân thì ẩm mục, trời trên đầu thì u ám, người như rã ra từng tí một. Tuy vậy, ba năm đầu cũng tạm ổn, mình là dân quê, sức lực cũng khá, mãi đến 3 tháng 11 ngày sau mới quỵ hẳn. Suốt ngày nhìn chăm chắm cái lưỡi cưa sáng loáng ăn vào thớ gỗ. Đêm nằm, nhắm mắt lại là nghe tiếng rít của lưỡi cưa, là nhìn thấy những thân cây gãy đổ lao ầm ầm vào mình, làm sao mà ngủ. Cuối cùng, tôi ngã vật ra bên một gốc cây đang cưa dở. Người ta cho tôi uống thuốc ngủ, người ta bày tôi uống các loại lá, các loại rễ cây. Ai cũng bảo uống xong sẽ ngủ như chết nhưng tôi vẫn không sao ngủ được. Có người nghi tôi vô tình phạm phải chốn cấm kỵ nên bị phạt. Người khác thì lại bảo rằng tôi đã cưa phải loại linh mộc nào đó. Họ mời thầy về làm lễ, cúng kiếng suốt mấy ngày đêm. Nhưng sau tất cả mọi việc, tôi vẫn trơ ra. Người ta đành đưa tôi về nhà với một khoản tiền công tàm tạm. Cha mẹ, anh em, làng xóm đều thất kinh khi nhìn thấy tôi. Tôi gầy như một que củi, mắt lại mở thao láo như thằng dở. Anh gợi chuyện, từ lúc đến đây tôi thấy anh ngủ say lắm mà. Hắn cười lớn, ấy đấy, cái gì cũng có giới hạn của nó. Sau 3 tháng không ngủ, vào một đêm mùa hạ, tôi lăn ra ngủ ngoài hiên nhà, không trở dậy nữa. Ông bà, cô bác, anh em, làng xóm kéo đến xem như xem một đám bán thuốc dạo vậy. Hắn cười khục một tiếng, đời tôi cũng vài lần được thiên hạ chiêm ngưỡng đấy chứ, cũng có fan hâm mộ đấy chứ. Anh tò mò hỏi, thế bây giờ anh đi đâu. Hắn ngáp, về xuôi. Nghe nói ở N có thầy giỏi lắm, cái gì liên quan đến chuyện ngủ nghê là ông ấy chữa khỏi tất. Ấy là nghe thiên hạ đồn đoán vậy, ai biết được thực hư thế nào. Kỳ thực thì bị bố mẹ bắt ép chứ tôi thấy chả cần thầy cần thuốc. Cùng tắc biến, nắng chán rồi mưa, hạn chán rồi lũ, ngủ chán sẽ dậy thôi. Anh dè dặt đưa đẩy, ấy đấy, vấn đề là ở chỗ mọi thứ không chịu ở trạng thái bình thường, chắc các cụ sợ anh dậy rồi lại không chịu ngủ nữa. Hắn đưa tay nắn nắn chiếc túi gối đầu, ngáp rõ to, đáp dấm dẳng, ờ, đời mà, biết thế quái nào, rồi cúi xuống cởi đôi dép nhựa màu nâu còn mới, co chân lên ghế. Anh hỏi, cố kéo dài câu chuyện, thế lúc ngủ anh có nằm mơ không. Hắn nhướn cặp mắt sưng húp lên nhìn anh, cậu có làm sao không đấy, không mơ thì ngủm củ tỏi rồi, không mơ thì làm sao còn ngồi đây trò chuyện nhăng nhít với cậu. Anh không dám ừ hử gì, sợ hắn phật ý nhưng hắn bỗng cười lớn, mơ đủ thứ, mơ uống rượu với cha, mơ ăn cơm với mẹ, thấy cả món canh riêu nòng hổi, mơ thấy nhà thấy cửa, mơ tắm sông, mơ thả diều, mơ đá bóng, mơ hàn huyên với bạn hữu, mơ cãi nhau với thằng nhỏ phụ việc, mơ nhà cháy, mơ lũ cuốn cả cánh rừng, mơ thấy bạn gái cũ, dù đã bỏ mình đi lấy chồng vẫn đến thăm nom, chung chạ, mơ đánh thằng cai một trận thừa sống thiếu chết… cái thằng cai này chuyên ăn chặn của cánh thợ rừng, uất lắm mà lúc thức đâu có dám ho he gì, mơ thì đánh nó đã đời, võ tàu, võ tây đủ cả… Hắn im lặng, đưa mu bàn tay xoa xoa lên trán như cố nhớ lại những giấc mơ của mình, rồi đột ngột nhìn thẳng vào anh, ấy đấy, cậu đã thủng chưa, rốt cục thì ngủ cũng là một cách thức, thức cũng là một cách ngủ, ngủ cũng là… mấy tiếng cuối cứ lả dần đi rồi cả người hắn bất thần đổ dúi dụi xuống ghế như một cái cây vừa bị đốn, tay vẫn ôm khư khư chiếc mũ trước bụng. Nhìn kỹ thì đó là loại mũ bảo hộ của cánh thợ rừng. 

      Trời nhá nhem tối. Ông cụ tay cầm ly rượu, mắt chăm chú nhìn ra vạt cỏ bên sân ga, nơi cụ bà đang lúi húi hái cỏ mực. Sợ phiền ông, anh đi thẳng ra hiên, ngồi nhìn khoảnh sân nhỏ sau cơn mưa. Trên nền xi măng cũ kỹ, nửa xám nửa đen, cỏ dại mọc lôm nhôm ở những chỗ bị tróc lở, nứt nẻ. Nơi góc sân xa nhất, hai chậu vạn thọ đang gắng gỏi nở những bông vàng còi cọc cho buổi chiều, trông thật tội nghiệp. Đôi thanh niên nam nữ cũng dắt díu nhau theo ra. Cô gái rụt rè hỏi, anh có biết xem tướng không ạ. Anh ngạc nhiên nhìn cô, định từ chối rồi không hiểu sao lại nói, vâng, nhưng chỉ xem chuyện tình duyên thôi, còn công danh sự nghiệp thì không tường. Cô gái reo khẽ, hay quá, anh xem giúp em với. Cô chìa bàn tay ra trước anh. Một bàn tay khỏe mạnh, các ngón tay tròn trịa, nằm khít bên nhau. Anh nhìn hồi lâu, ra chiều suy nghĩ, rồi phán, đường tâm đạo của cô có phần không được suôn sẻ. Cô có 2 hố nước mắt đây này, một lần vào khoảng năm 18 tuổi, một lần mới gần đây, có lẽ vào cuối năm vừa rồi. Việc không thành không do lỗi ở nơi cô mà cũng chẳng phải ở người ta, chỉ là chưa đến duyên đến số mà thôi. Hai má cô gái ửng hồng, đôi môi hơi mím lại, khoe một lúm đồng tiền nơi khóe miệng. Có vẻ như cô đang muốn phân trần, giải thích điều gì đó nhưng rồi chỉ lí nhí cám ơn. Chàng trai ngồi bên cạnh, chăm chú lắng nghe lời thầy nhưng hoàn toàn không có phản ứng nào. Cô gái cầm lấy tay anh ta, anh ơi, anh xem luôn cho anh ấy nhé. Anh cười, cậu này tôi nhìn tướng là được rồi. Cậu là người có chí hướng, có trách nhiệm, giàu tình cảm nhưng hình như cũng lại không thật may mắn trong chuyện tình duyên. Nếu tôi không lầm thì cậu vừa trải qua một cú sốc tương đối nặng, cậu đang rất buồn. Nhưng cậu chớ lo lắng, nhìn thần thái của cậu thì chỉ ít lâu nữa nhất định cậu sẽ tìm ra người cậu muốn tìm, có khi người đó đang ở rất gần cậu cũng không chừng. Chàng trai lắc lắc đầu, xòe năm ngón tay lùa vào mái tóc dày như phản đối lời phán nhưng lại nói, giọng khàn xuống, cám ơn anh. Họ không hề ngờ rằng những gì anh nói chỉ là những điều chính anh đã trải qua, đang trải qua mà thôi. Nhìn vẻ bối rối, cảm động của hai người trẻ, anh có cảm giác mình đã làm điều chi không phải. Anh ân cần hỏi họ, cô cậu xuôi hay ngược. Cả 2 cùng đáp, ngược, đến Y anh ạ. Chàng trai nói thêm, em đi chơi thôi. Cô gái chen vào, còn em thì đi nhận việc ạ. Lòng nhẹ nhõm đôi phần, anh vỗ vai chàng trai, vậy là ta đồng hành một đoạn cũng khá dài.

      Ông cụ khoác túi, ra đứng sau lưng họ, tôi về làng đây. Chúc mọi người xuôi ngược bình yên. Tàu sắp tới đấy. Anh quay lại, định chào ông một câu nhưng ông đã đột ngột tan vào ánh sáng mờ ảo của buổi chạng vạng. Trên chiếc ghế ông đã ngồi không còn một hạt muối, một chiếc vỏ lạc để lưu dấu sự có mặt của ông. Có phần hoang mang, anh quay tìm Người ngủ. Hắn vẫn ngủ. Trong lúc anh ngắm nhìn những ngón tay vuông vức của hắn đan vào nhau để giữ chiếc mũ trước bụng thì hắn bật dậy, kêu toáng lên, tàu đến, tàu đến. Cùng lúc, đèn trong nhà bật sáng, không khí bỗng nhốn nháo, sinh động hẳn. Trước sân, người trưởng ga gọn gàng trong bộ đồng phục, đang bước xuống những bậc cấp phủ đầy hoa xấu hổ màu tím. Ngay sau ông ta là một người nhỏ bé, chạy lon ton, tay không ngừng vung vẩy lá cờ nhỏ xíu vào khoảng không.

      Anh ngoảnh nhìn căn phòng, ngạc nhiên khi trông thấy một cây đèn chùm màu hồng được treo hững hờ ngay trên đầu người bán vé. Anh không thể biết nó vốn có từ trước đó hay chỉ vừa xuất hiện khi anh cùng hai người trẻ ra ngoài. Vật trang trí kỳ lạ này dù không được dẫn điện vẫn lộng lẫy với vô số những chiếc bóng nho nhỏ, những cái chao đèn uốn lượn điệu đà, phản chiếu ánh sáng của 2 ngọn đèn vàng treo chỗ cửa ra vào. Có một chút gì như sự thách đố hợm hĩnh của nó với khung cảnh điêu tàn của nhà ga, với khuôn mặt buồn bã của cô nhân viên bán vé còn trẻ đang hướng ánh nhìn tới các hành khách hiếm hoi của mình. Có lẽ chiều nay cô thua đậm trong cuộc chơi chẵn lẻ, anh nghĩ.
SG 2/2012

--------------------------------
* nguồn: blog phovan

bài chủ nhật số 3 – nguyễn đăng trình * thơ











buồn chân lẩn quẩn bờ sông
đục trong màu nước lớn ròng vô tư
duyên tôi phập phập phù phù 
tóc khô bạc ngọn tình hư héo rồi!

lục bình tím biếc hoa trôi
bốn mùa gió dập sóng dồi lênh quênh
đời tôi thừa rủi thiếu hên
ước mơ thương tích trỗng trênh giấc buồn

cũng may còn chút văn chương
còn miền kỷ niệm ngát hương quế trầm
chợt khi thơ phú cà lăm
về nuôi nhau giọt sương rằm trăng xanh…

ru người yêu dấu – trần thị cổ tích * thơ











Có thể nào ta từ bỏ đời nhau
Khi đớn đau nhục nhằn đã hòa vào máu thịt
Khi nước mắt ngày xưa còn thấm mặn môi
Khi dòng sông Trà luôn gập ghềnh hai nửa
Đợi ta bên nhau sông mới chảy xuôi dòng

Có thể nào ta lại quên nhau
Khi trăng và biển đã thành thánh địa
Trăng ngỡ ngàng đêm xưa người rũ tóc
Hồn-run-run-áo-mỏng-phất-phơ-tình
Biển tung tiếng cười giữa tầng tầng sóng biếc
Đón hai mảnh đời bầm dập mấy mươi năm

Có thể nào em quên được anh
Người đàn ông tếu táo
Người đàn ông dữ dội
Người đàn ông đa tình
Người đàn ông khổ nạn
Khóc cả nhân gian trong một cái nhíu mày

Có thể nào em bỏ anh
Người đã móc trái tim mình
Đặt vào tay em.

tháng 9.2012

Thứ Bảy, 1 tháng 9, 2012

bài chủ nhật số 2 - nguyễn đăng trình * thơ










trái tim tôi rách từa lưa 
cuộc tình lụi xụi bốn mùa tro than
lăng xăng hoa kiểng địa đàng
chưa hương sắc sớm đã tan tác chiều!

hớp hồn đôi mắt phiêu phiêu
bùi lời môi mép ngọt điều từ tâm
cả ngu tôi lỡ mê lầm
cơn chi trời đất cũng đầm đìa mưa?!...

xin thôi giọng dạ điệu thưa
trả tôi về thuở tôi chưa hồ đồ
ngày ngày cù bấc cù bơ
đêm đêm băng bó câu thơ tật nguyền…