KỲ 5
* Hình
từ trên xuống: Y Nhi, Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài (trái), Vũ Thị Thường
(phải).
Trong
các nhà văn nữ, có hai người đặc biệt nổi tiếng cả trong lẫn ngoài nước và
không phải chỉ do văn chương. Đó là Dương Thu Hương và Phạm Thị Hoài. Sang thời
đổi mới, nước ta “âm thịnh dương suy” sao đó thấy nổi lên toàn các bậc quần
thoa?
Sau
khi viết được một số truyện ngắn và một vài tiểu thuyết, Dương Thu Hương
có xu hướng thiên về chính trị. Cô thường tuyên bố: "tôi dùng văn chương để
làm chính trị". Tôi và Dương Thu Hương là chỗ quen biết “mày tao”.
Khoảng năm 1990, Hương bay vào Sài Gòn ở tại Chi nhánh nhà NXB Phụ Nữ gần dinh
Thống Nhất và gọi tôi tới gấp.
Tôi
kéo Hương ra ngồi vườn hoa trước cửa dinh nghe cô nói về đổi mới, về dân chủ
tập trung, về vai trò nhà văn… Tôi cười hề hề:
"Chịu thôi, tao ghét “chính chị”, tao chỉ thích “chính em” thôi".
Hương
đấm tôi, chửi toáng:
"Tổ sư thằng béo, nhát như thỏ đế…”.
Nói
vậy nhưng những ngày sau tôi vẫn chở Hương đi khắp Sài Gòn gặp gỡ “chiến
hữu”, diễn thuyết tại CLB trí thức ở 43
Nguyễn Thông…
Có
lần, vào buổi tối, tôi chở Hương chạy qua phố Lê Quý Đôn, hồi đó “chị em ta”
đứng đầy vỉa hè dưới ánh đèn đường. Lúc chạy ngang, có em gái nhận ra tôi,
gọi ơi ới:
"Anh Tuấn ơi… chở vợ đi đâu đấy?”.
Đám
chị em cười ầm ầm làm Hương chửi tôi té tát, đấm vào lưng thùm
thụp. Ra Hà Nội, có lần tôi chở Hương tới tạp chí Văn Nghệ Quân Đội ở phố Lý Nam
Đế gặp nhà
văn Nguyễn Khải mới Sài Gòn ra. Ba anh em chuyện trò rôm rả lắm. Tôi khoe với Nguyễn Khải:
"Con Hương nó mới ra tiểu thuyết hay lắm”.
Ông Khải trố mắt:
"Thế à? Cuốn gì thế?”
Tôi liếc Hương:
"Chuyện tình kể trước lúc… dạng chân”.
Nói
xong tôi ré chân chạy. Ông Khải phá ra cười hô
hố làm
Hương vừa chửi vừa vác guốc đuổi đánh tôi. Mấy hôm sau, vào gần
trưa Hương hẹn tôi, nhà thơ Lê Đạt, nhà phê bình Hoàng Ngọc Hiến tới sân
Hội liên hiệp VHNT, 51 Trần Hưng Đạo. Hương bảo mỗi người hãy nói ngắn gọn “văn xuôi là gì". Tôi nhớ Lê Đạt và Hoàng Ngọc Hiến nói rất hay, Dương Thu
Hương ghi lia lịa. Đến lượt tôi chẳng biết nói gì, đành bài bây:
"Văn xuôi gì cũng chẳng bằng thịt chó. Giờ lên
hàng Lược đánh một trận mới thật là văn xuôi”.
Dường Thu Hương chửi:
"Tổ sư thằng béo, chưa chi đã vòi ăn. Mà thằng
này nói có lý… lúc này văn xuôi gì cũng chẳng bằng thịt chó…”.
Thế là cả bốn anh em thả bộ lên chợ Châu Long đánh
một bữa túy lúy. Dương Thu Hương là như thế. Hết lòng với
bạn bè. Miệng lưỡi chua ngoa nhưng lòng dạ tử tế, thương người, trọng nghĩa
khinh tài. Hồi năm 1979 đánh Tàu, DTH viết truyện ngắn “Chân dung người
hàng xóm” vạch mặt Trung Quốc, được giải nhất báo Văn Nghệ. Hương viết khỏe và nhiều. Trong các tác phẩm của Hương,
tiểu thuyết “Thiên đường mù” theo tôi là hay nhất. Về sau cô thiên
về hoạt động chính trị nên các tác phẩm gây tiếng vang phần nhiều là do chính
trị.
Xuân
Sách viết về Dương Thu Hương với cảm tình rõ rệt:
“Tay em cầm bông bần ly
Bờ
cây đỏ thắm làm chi não lòng
Chuyện
tình kể trước lúc rạng đông
Hoàng
hôn ảo vọng vẫn không tới bờ
Thiên
đường thì quá mù mờ
Vĩ
nhân tỉnh lẻ vật vờ bóng ma
Hành
trình thơ ấu đã qua
Hỡi
người hàng xóm còn ta với mình”.
“Nữ tướng” văn xuôi thứ hai phải kể đến nhà văn Phạm Thị Hoài . Hoài xuất
hiện cùng với Nguyễn Huy Thiệp ở báo Văn Nghệ vào thời Tổng biên tập
Nguyên Ngọc đổi mới báo. Hồi đó tôi ở Sài Gon ra, nhà thơ Dương Tường đưa tôi
mấy truyện ngắn của Phạm Hoài Nam
(tên mới ra lò của Hoài) dặn: "cậu đọc kỹ và nhận xét coi!”.
Đọc
xong tôi mang trả Dương Tường và chẳng hiểu sao tôi lại phán như ông thầy đời:
"Con
bé này cứ đi theo đường này nhất định là tắc tị…”.
Mấy
năm sau Phạm Thị Hoài nổi như cồn với Thiên Sứ, Mê Lộ, Marie Sến… Tôi thấy ân
hận vì đã nhận xét bộp chộp. Hai chục năm sau nhớ lại thấy bớt áy náy, vì suy
cho cùng văn tài nào chẳng tới lúc… tắc tị?
Sau
này Phạm Thị Hoài sang Đức làm Talawas, diễn đàn văn học nghệ thuật bậc nhất,
rất có ích cho văn nghệ sĩ cả trong lẫn ngoài nước. Tuy bận rộn Hoài vẫn
viết tiểu luận, và vẫn viết hai truyện ngắn xuất sắc: "Cam Tâm” và “Ám
thị”. Có lần về VN, Hoài tìm tới cơ quan tặng tôi cuốn Marie Sến. Tôi
treo cuốn này ở ghi đông xe đạp vừa đạp thể dục vừa ngẫm nghĩ về
nó, tới lúc quẹo trái, mải nghĩ bị xe máy phía sau tông hắt bắn lên trời cả
người lẫn sách, nằm liệt cả tháng, sau cứ nhìn thấy Marie Sến của Hoài lại
giật mình thon thót nghĩ tới lúc hút chết.
Xuân
Sách hiểu khá rõ Phạm thị Hoài:
“Dẫu chín bỏ làm mười
hay
mười hai cũng mặc
Chẳng
ai dung thiên sứ đất này
Dụ
đồng đội vào trong mê lộ
Rồi
bỏ đi du hí đến năm ngày.
Cùng
lứa với Dương Thu Hương là nhà thơ Ý Nhi. Bà là ái nữ của nhà văn -nhà nghiên
cứu- GS Hoàng Châu Ký, quê Quảng Nam, là phu nhân của Giáo sư Nguyễn Lộc,
nghiên cứu văn học. Ý Nhi nhiều năm làm biên tập NXB Hội nhà văn, sau đó chuyển
vào TP Hồ Chí Minh, là Trưởng Chi nhánh của NXB này.
Ý
Nhi làm nhiều thơ: Nỗi nhớ con đường, Cây trong phố chờ trăng, Người đàn bà
ngồi đan, Ngày thường, Mưa tuyết… phần nhiều mang tâm trạng ngổn ngang như
chị đã từng viết trong “tiểu dẫn”: “tôi ngại các tiệc vui - nhiều khi tôi
khóc vì chính cái khiến mọi người quanh tôi vui sướng - và lại muốn thét lên
khi mọi người yên lặng”.
Trong
thơ chân dung về Ý Nhi, Xuân Sách cũng thắc mắc: "Trái tim với nỗi nhớ ai…”
khiến “người đàn bà ngồi đan" phải “sợi dọc thì rối, sợ ngang thì
chùng”.
Ở
Hội nhà văn có một bậc cao nhân, thi văn nhạc toàn tài, là người trong mộng của
nhiều nữ hội viên. Không biết Xuân Sách có ám chỉ ông này không?
Trái
tim với nỗi nhớ ai
Như
cây trong phố đứng hoài chờ trăng
Như
người đàn bà ngồi đan
Sợi
dọc thì rối, sợi ngang thì chùng.
Bậc
“đàn chị” về tuổi tác của các nữ sĩ trên phải kể tới nhà văn Vũ Thị Thường
năm nay cũng ngoài 80, là Chế Lan Viên phu nhân và thân mẫu của nhà văn
Phan thị Vàng Anh. Số là vài năm sau khi chia tay với bà vợ đầu
Nguyễn Thị Giáo năm 1958, Chế Lan Viên đi thực tế Thái Bình và gặp cô gái “mầm
non văn nghệ" Vũ Thị Thường. Được nhà thơ lớn “kèm cặp”, Vũ Thị Thường viết
truyện ngắn “cái hom giỏ” được giải nhất báo Văn Nghệ, được đưa về công tác ở
Hội nhà văn, làm đám cưới với Chế Lan Viên và sau này làm tới Ủy viên chấp hành Hội. Vũ thị Thường viết
thêm được truyện “gánh vác”, “cái lạt” và “vợ chồng ông lão chăn vịt" rồi
thôi.
Xuân
Sách viết về Vũ Thị Thường với giọng bông lơn:
Từ
trong hom giỏ chui ra
Đã
toan gánh vác sơn hà chị ơi
Định
đem cái lạt buộc người
Khổ
thay ông lão vịt trời phải chăn
Nghe
đồn trong “dị bản” về Chế Lan Viên, còn hai câu nữa cũng nói về Vũ Thị Thường:
“Nghĩ Thường gánh vác mà thương
Lẽ
đâu sự nghiệp chỉ bằng cái hom?”
Chi
tiết này xin dành các nhà nghiên cứu văn học.
KỲ 6
ảnh nhà văn Trần Dần
Nếu nhà thơ Xuân Sách còn sống, tôi sẽ hỏi sao trong nhóm các nhà văn Nhân Văn Giai Phẩm ông “vẽ chân dung” Trần Dần, Hoàng Cầm, Phùng Quán mà không vẽ Lê Đạt, vốn ăn đòn với “Bài thơ ghế đá”, “đem bục công an đặt giữa tim người", Phùng Cung, người viết phản kháng mạnh nhất trong cả nhóm.
Xuân Sách đã “quên”, giới phê
bình cả trong và ngoài nước cũng chỉ nhất mực tôn vinh, đề cao hết cỡ “thủ lĩnh
trong bóng tối" – nói theo Phạm Thị Hoài – nhà văn, nhà thơ Trần Dần.
Trang Tiền vệ đã mở hẳn một
chuyên mục Trần Dần. Một nhà phê bình trẻ, Như Huy ca ngợi “mùa sạch":
“tập thơ Mùa sạch của Trần
Dần đã làm một cuộc vượt vũ môn ngoạn mục thoát khỏi chủ nghĩa lãng mạn, chủ
nghĩa hiện đại và cả những cách tân lặt vặt của nghệ thuật Việt Nam để trở nên
một tác phẩm nghệ thuật tiên phong nhất, hoàn hảo nhất và trí tuệ bậc nhất của
nghệ thuật Việt Nam, thậm chí, tính cả tới thời điểm của những năm tháng này –
những năm tháng bắt đầu của thế kỷ 21”.
Trịnh Bích Thủy phân tích sự
hấp dẫn khác thường của “Mùa sạch”:
“Thơ ông lạ, quá lạ so với
sức cảm thụ của lớp trẻ chúng tôi. Dẫu thế ta vẫn cảm giác những con chữ của
ông nhảy nhót, va đập nhau dữ dội tạo nên một thế giới đầy âm thanh và hình
khối. Cùng với sức hút của sáng tạo, "Mùa sạch" càng đọc càng trở nên da diết: "Nội thành xuân lập xuân/ Tấp nập nam nữ xuân/ Mưa xuân lợp xợp đường xuân/ Gái
xuân bum búp nốt giày xuân/ Hồ bơi xuân thờm thợp thuyền xuân/ Ga xuân cập rập
tàu xuân/ Vỉa hè xuân ngờm ngợp gió xuân/ Phố phường xuân rờm rợp vai xuân"…Cứ
như thế, câu kéo câu, dòng kéo dòng…".
Để “xác minh” những lời ca
ngợi trên, ta thử đọc trích đoạn” Mùa sạch":
“Anh vẫn tìm em qua phòng
triển lãm sạch
Qua khu sứ quán sạch
Qua sớm mai trường Đảng
sạch
Qua Bộ Công nghiệp nặng
sạch
Qua nha khí tượng sạch
Qua ca ba phân xưởng sạch”
Cứ như vậy khắp nơi nơi, chỗ
nào cũng… sạch, cả “trường Đảng” với “sứ quán” (chắc sứ quán Trung Quốc) cũng
sạch, vậy tập thơ này phải được giải của Bộ tài nguyên và môi trường.
Thơ Trần Dần được Phạm Thị
Hoài giải mã:
"Ông sẽ giới thiệu một
thứ ngôn ngữ khác, một thứ tiếng Việt không chỉ cho lỗ tai mà còn cho con mắt,
không trói nghĩa vào chữ, không bôi chữ vào chỗ trống của vô nghĩa”.
Thơ Trần Dần:
“em dài man dại
em dài quên che đậy
em dài tê tái
em dài quên cân đối
em dài bối rối
em dài vô tội”
mưa quanh dàn dạt hạt -
phố. mây trắng. số nhà đen. hạt đèn thuở nọ.
Phải chăng, do một thời gian
dài, Trần Dần bị "cách ly" khỏi đời sống, chui vào “gara Hội nhà văn"
dịch sách (“Những người chân đất") cộng với nỗi ám ảnh “đòn vọt” những
năm 1957-1960 đã làm ông né xa mọi chuyện “nhạy cảm”, chuyện “thời thế” và chui
vào lối thơ “ngôn ngữ khác" – một thứ “công nghệ Trần Dần” “chọn chữ, tìm chữ,
phu chữ”. Chính “công nghệ” này đã mở lối cho nhiều nhà thơ trẻ hiện nay đội
“chủ nghĩa duy mỹ” lên đầu, gắn chữ "thọ" sau đít, quẩn quanh chuyện
thân xác, phòng the, tình trai gái… tránh xa những giằng xé, bức xúc thời đại.
Văn xuôi Trần Dần còn được
tâng bốc dữ dội hơn. Trong dịp xuất bản cuốn “Những ngã tư và những cột đèn”
do Công ty Nhã Nam
ấn hành, một cơn bão ngôn từ ca ngợi
cuốn sách đã nổi lên tại Trung tâm văn hóa Pháp.
Nhà văn Lê Minh Khuê hăng hái:
“Với tư cách người viết,
tôi kính trọng Trần Dần - một người trọng nghề nghiệp, một người lao động nghiêm
khắc. Tôi đọc rất nhiều của ông, nhưng rất ngạc nhiên khi đọc Những ngã tư và
những cột đèn. Và tôi nghĩ, nếu cuốn này được dịch tốt sẽ không thua
kém tác phẩm tốt nào ở nhiều nơi, vùng đất khác” .
Nhà phê bình Phạm Xuân
Nguyên hân hoan:
“Cuốn tiểu thuyết ra đời,
giới văn học hân hoan, khoái trá. Bởi sau Nỗi buồn chiến tranh của Bảo
Ninh, rất lâu mới có một cuốn tiểu thuyết đọc sướng như thế. Những ngã tư
và những cột đèn là cuốn viết nội dung, không phải kể nội dung. Đọc rồi, đọc
lại tôi vẫn thấy háo hức, hồi hộp xem những gì xảy ra tiếp...’.
Nhà thơ Dương Tường đại ngôn:
“Tôi có lẽ là độc giả đầu
tiên của Những ngã tư và những cột
đèn. Mỗi khi ông viết xong một chương, tôi được đọc. Ở Việt Nam có ai
đáng Nobel, người đó là Trần Dần. Nếu không in được tất cả di cảo
của ông, không phải thiệt cho Trần Dần mà thiệt cho văn học nước ta. Đọc Trần
Dần, người ta thấy khoái cảm chữ, tiếng. Cuốn tiểu thuyết như bữa tiệc ngôn
ngữ. Có nhiều trang, chương như thơ”.
Nhà văn trẻ Nguyễn Vĩnh
Nguyên cũng cao giọng trên báo SGTT:
“Xét về nghệ thuật văn
bản, đây là một cuốn tiểu thuyết gây sững sờ cho những độc giả có mối quan tâm
và hỏi đòi về sự kiếm tìm kỹ thuật. Những thủ pháp như liên văn bản, phân mảnh
tự sự, giễu nhại… của phương pháp hậu hiện đại đã được Trần Dần sử dụng nhuần
nhuyễn từ rất sớm với một ý thức cao” .
Nhà phê bình Lại Nguyên Ân
sửng sốt:
"Tôi hoàn toàn bất ngờ vì cuốn tiểu thuyết này. Vẫn
biết sự nghiệp Trần Dần lớn và rất đa dạng, nhưng không thể ngờ ông lại hiện
đại đến thế".
Tôi đọc những lời “có cánh”
này khi chưa đọc tiểu thuyết nên cũng bán tín bán nghi. Thế rồi nhà văn
Trần Hoài Dương lúc đó đang còn khỏe mạnh, gọi điện cho tôi:
"Ông đọc “Những ngã tư và
những cột đèn" của Trần Dần chưa? Trời ơi, viết lách như thế mà
“tụi nó” đưa lên mây xanh...”.
Nghe lời Trần Hoài Dương tôi
đành bỏ tiền túi ra mua và trân trọng đọc với nỗi lo canh cánh Phạm thị Hoài đã
cảnh báo:
"Phần lớn tác phẩm của
ông, mỗi dòng là mỗi riêng một cõi, càng lúc càng riêng, riêng tới mức cực
đoan, riêng tới mức bí hiểm phải giải mã, phải cần đến một từ điển Trần Dần,
không có cách nào khác là làm phận bản-thảo-nằm”.
Đọc được mới non
nửa tôi đã muốn ngã bổ chửng. Ôi thôi thôi, nào đâu là “bí hiểm phải giải
mã”, nào đâu “phải cần đến một từ điển Trần Dần”, nào đâu “Những
thủ pháp như liên văn bản, phân mảnh tự sự, giễu nhại…” nào đâu “những
thủ pháp hậu hiện đại”?
Nói cho công bằng, đây là một
cuốn truyện dễ đọc vì văn chương câu chữ vẫn nằm trong dòng tiểu thuyết miền
Bắc những năm 1960, câu chuyện được kể vẫn “tuần tự nhi tiến”, nói cho sang là
vẫn “tuyến tính”, chỗ nào nhảy cóc thời gian thì có giới thiệu ngay đầu dòng,
cả nhân vật cũng vậy, từ người này chuyển sang người kia đều có nói rõ. Tuy
nhiên cái cao hơn cả là cảm hứng dẫn dắt của cuốn truyện là “bôi xấu" những
người lính chế độ cũ còn kẹt lại và ca ngợi cán bộ khu phố và công an hết lời.
Đây là “cảm hứng thời đại” của những năm thời bao cấp “địch thì xấu thiệt
xấu” còn “ta thì tốt thiệt tốt”. Như cô Cốm vợ anh ngụy binh Dưỡng
chỉ sau mấy ngày giải phóng - mà tác giả cứ nhắc đi nhắc lại là “ngày tết của
dân Hà Nội" (he he) đã học theo cái lối cải cách ruộng đất chạy đi tìm chị cán
bộ khu phố để… tố cáo chồng.
Mới đây trên trang web của
nhà văn Trần Đức Tiến có bài viết của Trần Nhã Thụy về cuốn “Những ngã tư và
những cột đèn” này:
“Nhiều người khen Trần Dần
ở cái cuốn này rồi, em không nhắc lại (chỉ muốn nhấn mạnh thêm, hiện giờ những
người viết kỹ lưỡng như Trần Dần hầu như đã bị… tuyệt chủng). Nhưng em cũng hơi
ngờ anh à. Em ngờ là những bác ấy chưa đọc hết cuốn, mà chỉ đọc 1/2 hay
chỉ đọc tới 2/3 là xoa tay, vỗ đùi “tuyệt vời, tuyệt vời”. Nhưng đọc hết thì
hóa ra nó không phải vậy
“Hóa
ra cái tay Nhọn cằm ấy không phải là "CÁ", mà là phần tử nguy hiểm từ
phía địch nó cài lại, để nó trấn áp tinh thần Dưỡng, để anh chàng dằn di này
không còn tâm trí đâu mà nghĩ tới bản danh sách mật (hehe). Hóa ra em Cốm,
tưởng khù khờ mà sáng suốt, đùng phát nói ra ngay, tên Nhọn cằm ấy đích thị là
địch (mà là địch thật). Hóa ra Tình Bốp cũng là thằng gián điệp cài lại (vậy mà
em cứ tưởng, bọn họ ban đầu vốn là những chiến hữu đớp hít rất vô tư, họ chỉ
thay hình đổi dạng, đổi tâm đổi tính khi thế cuộc xoay vần, vì sự tồn tại của
mình mà trở nên tha hóa...”.
“Rốt lại, hóa ra đây là cuốn tiểu thuyết ca ngợi mưu
trí tuyệt vời của các đồng chí "CÁ" (điều tra dựa trên các giả thuyết và giả thiết
- chỗ này vui - chứ không áp đặt kết luận vội vàng). Hóa ra đây là một cuốn
trinh thám xịn, vậy mà em cứ tưởng Trần Dần chỉ mượn hình thức truyện trinh
thám để nói về “những ngã tư và những cột đèn” trong đời người. Tất nhiên là
nó cũng có cái đó, nhưng em thấy nó ngoại đề, và nhiều chỗ “lem nhem mực tím”
làm sao ấy”.
Thực sự tôi không hiểu những
người đầy uy tín như Dương Tường, Lê Minh Khuê, Lại Nguyên Ân… ca ngợi “lên mây
xanh”một cuốn truyện “thường thường bậc trung” như vậy để làm gì? Hy
vọng họ không PR cho nhà Nhã Nam bán
sách. Và cũng không hiểu căn cứ vào đâu, ông Phạm Xuân Nguyên dám khẳng định:
"Cuốn
tiểu thuyết ra đời, giới văn học hân hoan, khoái trá. Bởi sau Nỗi buồn
chiến tranh của Bảo Ninh, rất lâu mới có một cuốn tiểu thuyết đọc sướng như
thế".
Thưa
ông Phạm Xuân Nguyên, “giới văn học” của ông gồm những ai vậy?
Tất nhiên
những điều kể trên xảy ra sau khi nhà thơ Xuân Sách đã quá cố nên thơ chân dung
viết về Trần Dần chỉ nhắc tới tên những tác phẩm vốn đã quảng bá trong công
chúng:
“Người người lớp lớp
xông ra trận
Cờ đỏ
mưa sa
suốt dặm
dài
Mở đợt phá khẩu
tiến lên
nhất định thắng
Lô cốt mấy tầng
đè nát
vai
Dẫu sông núi cỏ cây làm chứng
Hồn vẫn treo trên
Vọng hải đài”
[còn tiếp]
---------------------
* nguồn: blog nhattuan
---------------------
* nguồn: blog nhattuan
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét