Thứ Ba, 5 tháng 6, 2012

chân dung hay chân tướng nhà văn? [kỳ 5-6] - nhật tuấn

 KỲ 5             




* Hình từ trên xuống: Y Nhi, Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài (trái), Vũ Thị Thường (phải).

Trong các nhà văn nữ, có hai người đặc biệt nổi tiếng cả trong lẫn ngoài nước và không phải chỉ do văn chương. Đó là Dương Thu HươngPhạm Thị Hoài. Sang thời đổi mới, nước ta “âm thịnh dương suy” sao đó thấy nổi lên toàn các bậc quần thoa?
Sau khi viết được một số truyện ngắn và một vài tiểu thuyết, Dương Thu Hương có xu hướng thiên về chính trị. Cô thường tuyên bố: "tôi dùng văn chương để làm chính trị". Tôi và Dương Thu Hương là chỗ quen biết  “mày tao”. Khoảng năm 1990, Hương bay vào Sài Gòn ở tại Chi nhánh nhà NXB Phụ Nữ gần dinh Thống Nhất và gọi tôi tới gấp.
Tôi kéo Hương ra ngồi vườn hoa trước cửa dinh nghe cô nói về đổi mới, về dân chủ tập trung, về vai trò nhà văn… Tôi cười hề hề:
"Chịu thôi, tao ghét “chính chị”, tao chỉ thích “chính em” thôi".
 Hương đấm tôi, chửi toáng:
"Tổ sư thằng béo, nhát như thỏ đế…”.
Nói vậy nhưng những ngày sau tôi vẫn chở Hương đi khắp Sài Gòn gặp gỡ  “chiến hữu”, diễn thuyết tại CLB trí thức ở 43 Nguyễn Thông…
Có lần, vào buổi tối, tôi chở Hương chạy qua phố Lê Quý Đôn, hồi đó “chị em ta” đứng đầy vỉa hè dưới ánh đèn đường. Lúc chạy ngang, có em gái nhận ra tôi, gọi ơi ới:
"Anh Tuấn ơi… chở vợ đi đâu đấy?”.
Đám chị em cười  ầm ầm làm Hương chửi tôi té tát, đấm vào lưng thùm thụp. Ra Hà Nội, có lần tôi chở Hương tới tạp chí Văn Nghệ Quân Đội ở phố Lý Nam Đế gặp nhà văn Nguyễn Khải mới Sài Gòn ra. Ba anh em chuyện trò rôm r lắm. Tôi khoe với Nguyễn Khải:
"Con Hương nó mới ra tiểu thuyết hay lắm”.
Ông Khải trố mắt:
"Thế à? Cuốn gì thế?”
Tôi liếc Hương:
"Chuyện tình kể trước lúc… dạng chân”.
Nói xong tôi ré chân chạy. Ông Khải phá ra cười hô hố làm Hương vừa chửi vừa vác guốc đuổi đánh tôi.  Mấy hôm sau, vào gần trưa Hương hẹn tôi, nhà thơ Lê Đạt, nhà phê bình Hoàng Ngọc Hiến tới sân Hội liên hiệp VHNT, 51 Trần Hưng Đạo. Hương bảo mỗi người hãy nói ngắn gọn “văn xuôi là gì". Tôi nhớ Lê Đạt và Hoàng Ngọc Hiến nói rất hay, Dương Thu Hương ghi lia lịa. Đến lượt tôi chẳng biết nói gì, đành bài bây:
"Văn xuôi gì cũng chẳng bằng thịt chó. Giờ lên hàng Lược đánh một trận mới thật là văn xuôi”.
Dường Thu Hương chửi:
"Tổ sư thằng béo, chưa chi đã vòi ăn. Mà thằng này nói có lý… lúc này văn xuôi gì cũng chẳng bằng thịt chó…”.
Thế là cả bốn anh em thả bộ lên chợ Châu Long đánh một bữa túy lúy. Dương Thu Hương là như thế. Hết lòng với bạn bè. Miệng lưỡi chua ngoa nhưng lòng dạ tử tế, thương người, trọng nghĩa khinh tài. Hồi năm 1979 đánh Tàu, DTH viết truyện ngắn “Chân dung người hàng xóm” vạch mặt Trung Quốc, được giải nhất báo Văn Nghệ. Hương viết khỏe và nhiều. Trong các tác phẩm của Hương, tiểu thuyết “Thiên đường mù” theo tôi là hay nhất. Về sau cô thiên về hoạt động chính trị nên các tác phẩm gây tiếng vang phần nhiều là do chính trị.
Xuân Sách viết về Dương Thu Hương với cảm tình rõ rệt:
“Tay em cầm bông bần ly
Bờ cây đỏ thắm làm chi não lòng
Chuyện tình kể trước lúc rạng đông
Hoàng hôn ảo vọng vẫn không tới bờ
Thiên đường thì quá mờ
Vĩ nhân tỉnh lẻ vật vờ bóng ma
Hành trình thơ ấu đã qua
Hỡi người hàng xóm còn ta với mình”.

“Nữ tướng” văn xuôi thứ hai phải kể đến nhà văn Phạm Thị Hoài . Hoài xuất hiện cùng với Nguyễn Huy Thiệp ở báo Văn Nghệ vào thời Tổng biên tập Nguyên Ngọc đổi mới báo. Hồi đó tôi ở Sài Gon ra, nhà thơ Dương Tường đưa tôi mấy truyện ngắn của Phạm Hoài Nam (tên mới ra lò của Hoài) dặn: "cậu đọc kỹ và nhận xét coi!”.
Đọc xong tôi mang trả Dương Tường và chẳng hiểu sao tôi lại phán như ông thầy đời:
"Con bé này cứ đi theo đường này nhất định là tắc tị…”.
Mấy năm sau Phạm Thị Hoài nổi như cồn với Thiên Sứ, Mê Lộ, Marie Sến… Tôi thấy ân hận vì đã nhận xét bộp chộp. Hai chục năm sau nhớ lại thấy bớt áy náy, vì suy cho cùng văn tài nào chẳng tới lúc… tắc tị?
 Sau này Phạm Thị Hoài sang Đức làm Talawas, diễn đàn văn học nghệ thuật bậc nhất,  rất có ích cho văn nghệ sĩ cả trong lẫn ngoài nước. Tuy bận rộn Hoài vẫn viết tiểu luận, và vẫn viết hai truyện ngắn xuất sắc: "Cam Tâm” và “Ám thị”. Có lần về VN, Hoài tìm tới cơ quan tặng tôi cuốn Marie Sến. Tôi treo cuốn này ở ghi đông xe đạp vừa đạp thể dục vừa ngẫm nghĩ về nó, tới lúc quẹo trái, mải nghĩ bị xe máy phía sau tông hắt bắn lên trời cả người lẫn sách, nằm liệt cả tháng, sau cứ nhìn thấy Marie Sến của Hoài lại giật mình thon thót nghĩ tới lúc hút chết.
Xuân Sách hiểu khá rõ Phạm thị  Hoài:
“Dẫu chín bỏ làm mười
 hay mười hai cũng mặc
Chẳng ai dung thiên sứ đất này
Dụ đồng đội vào trong mê lộ
Rồi bỏ đi du hí đến năm ngày.

Cùng lứa với Dương Thu Hương là nhà thơ Ý Nhi. Bà là ái nữ của  nhà văn -nhà nghiên cứu- GS Hoàng Châu Ký, quê Quảng Nam, là phu nhân của Giáo sư Nguyễn Lộc, nghiên cứu văn học. Ý Nhi nhiều năm làm biên tập NXB Hội nhà văn, sau đó chuyển vào TP Hồ Chí Minh, là Trưởng Chi nhánh của NXB này.
Ý Nhi làm nhiều thơ: Nỗi nhớ con đường, Cây trong phố chờ trăng, Người đàn bà ngồi đan, Ngày thường, Mưa tuyết… phần nhiều mang tâm trạng ngổn ngang như chị đã từng viết trong “tiểu dẫn”: “tôi ngại các tiệc vui - nhiều khi tôi khóc vì chính cái khiến mọi người quanh tôi vui sướng - và lại muốn thét lên khi mọi người yên lặng”.
Trong thơ chân dung về Ý Nhi, Xuân Sách cũng thắc mắc: "Trái tim với nỗi nhớ ai…” khiến  “người đàn bà ngồi đan" phải “sợi dọc thì rối, sợ ngang thì chùng”.
Ở Hội nhà văn có một bậc cao nhân, thi văn nhạc toàn tài, là người trong mộng của nhiều nữ hội viên. Không biết Xuân Sách có ám chỉ ông này không?
Trái tim với nỗi nhớ ai
Như cây trong phố đứng hoài chờ trăng
Như người đàn bà ngồi đan
Sợi dọc thì rối, sợi ngang thì chùng.

  Bậc “đàn chị” về tuổi tác của các nữ sĩ trên phải kể tới nhà văn Vũ Thị Thường  năm nay cũng ngoài 80, là Chế Lan Viên phu nhân và thân mẫu của nhà văn Phan thị Vàng Anh. Số là vài năm sau  khi chia tay với bà vợ đầu Nguyễn Thị Giáo năm 1958, Chế Lan Viên đi thực tế Thái Bình và gặp cô gái “mầm non văn nghệ" Vũ Thị Thường. Được nhà thơ lớn “kèm cặp”, Vũ Thị Thường viết truyện ngắn “cái hom giỏ” được giải nhất báo Văn Nghệ, được đưa về công tác ở Hội nhà văn, làm đám cưới với Chế Lan Viên và sau này làm tới Ủy viên chấp hành Hội. Vũ thị Thường viết thêm được truyện “gánh vác”, “cái lạt” và “vợ chồng ông lão chăn vịt" rồi thôi.
Xuân Sách viết về Vũ Thị Thường với giọng bông lơn:

Từ trong hom giỏ chui ra
Đã toan gánh vác sơn hà chị ơi
Định đem cái lạt buộc người
Khổ thay ông lão vịt trời phải chăn

Nghe đồn trong “dị bản” về Chế Lan Viên, còn hai câu nữa cũng nói về Vũ Thị Thường:
“Nghĩ Thường gánh vác mà thương
Lẽ đâu sự nghiệp chỉ bằng cái hom?”

Chi tiết này xin dành các nhà nghiên cứu văn học.

KỲ 6

          
   
















ảnh nhà văn Trần Dần 

Nếu nhà thơ Xuân Sách còn sống, tôi sẽ hỏi sao trong nhóm các nhà văn Nhân Văn Giai Phẩm ông “vẽ chân dung” Trần Dần, Hoàng Cầm, Phùng Quán mà không vẽ Lê Đạt, vốn ăn đòn với “Bài thơ ghế đá”, “đem bục công an đặt giữa tim người", Phùng Cung, người viết phản kháng mạnh nhất trong cả nhóm.
Xuân Sách đã “quên”, giới phê bình cả trong và ngoài nước cũng chỉ nhất mực tôn vinh, đề cao hết cỡ “thủ lĩnh trong bóng tối" – nói theo Phạm Thị Hoài – nhà văn, nhà thơ Trần Dần.
Trang Tiền vệ đã mở hẳn một chuyên mục Trần Dần. Một nhà phê bình trẻ, Như Huy ca ngợi “mùa sạch":
“tập thơ Mùa sạch của Trần Dần đã làm một cuộc vượt vũ môn ngoạn mục thoát khỏi chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện đại và cả những cách tân lặt vặt của nghệ thuật Việt Nam để trở nên một tác phẩm nghệ thuật tiên phong nhất, hoàn hảo nhất và trí tuệ bậc nhất của nghệ thuật Việt Nam, thậm chí, tính cả tới thời điểm của những năm tháng này – những năm tháng bắt đầu của thế kỷ 21”.
Trịnh Bích Thủy phân tích sự hấp dẫn khác thường của “Mùa sạch”:
Thơ ông lạ, quá lạ so với sức cảm thụ của lớp trẻ chúng tôi. Dẫu thế ta vẫn cảm giác những con chữ của ông nhảy nhót, va đập nhau dữ dội tạo nên một thế giới đầy âm thanh và hình khối. Cùng với sức hút của sáng tạo, "Mùa sạch" càng đọc càng trở nên da diết: "Nội thành xuân lập xuân/ Tấp nập nam nữ xuân/ Mưa xuân lợp xợp đường xuân/ Gái xuân bum búp nốt giày xuân/ Hồ bơi xuân thờm thợp thuyền xuân/ Ga xuân cập rập tàu xuân/ Vỉa hè xuân ngờm ngợp gió xuân/ Phố phường xuân rờm rợp vai xuân"…Cứ như thế, câu kéo câu, dòng kéo dòng…".
Để “xác minh” những lời ca ngợi trên, ta thử đọc trích đoạn” Mùa sạch":
“Anh vẫn tìm em qua phòng triển lãm sạch
Qua khu sứ quán sạch
Qua sớm mai trường Đảng sạch
Qua Bộ Công nghiệp nặng sạch
Qua nha khí tượng sạch
Qua ca ba phân xưởng sạch”
Cứ như vậy khắp nơi nơi, chỗ nào cũng… sạch, cả “trường Đảng” với “sứ quán” (chắc sứ quán Trung Quốc) cũng sạch, vậy tập thơ này phải được giải của Bộ tài nguyên và môi trường.
Thơ Trần Dần được Phạm Thị Hoài giải mã:
"Ông sẽ giới thiệu một thứ ngôn ngữ khác, một thứ tiếng Việt không chỉ cho lỗ tai mà còn cho con mắt, không trói nghĩa vào chữ, không bôi chữ vào chỗ trống của vô nghĩa”.
Thơ Trần Dần:
“em dài man dại
em dài quên che đậy
em dài tê tái
em dài quên cân đối
em dài bối rối
em dài vô tội”

mưa quanh dàn dạt hạt - phố. mây trắng. số nhà đen. hạt đèn thuở nọ.

Phải chăng, do một thời gian dài, Trần Dần bị "cách ly" khỏi đời sống, chui vào “gara Hội nhà văn" dịch sách (“Những người chân đất") cộng với nỗi ám ảnh “đòn vọt” những năm 1957-1960 đã làm ông né xa mọi chuyện “nhạy cảm”, chuyện “thời thế” và chui vào lối thơ “ngôn ngữ khác" – một thứ “công nghệ Trần Dần” “chọn chữ, tìm chữ, phu chữ”. Chính “công nghệ” này đã mở lối cho nhiều nhà thơ trẻ hiện nay đội “chủ nghĩa duy mỹ” lên đầu, gắn chữ "thọ" sau đít, quẩn quanh chuyện thân xác, phòng the, tình trai gái… tránh xa những giằng xé, bức xúc thời đại.
Văn xuôi Trần Dần còn được tâng bốc dữ dội hơn. Trong dịp xuất bản cuốn “Những ngã tư và những cột đèn” do Công ty Nhã Nam ấn hành, một cơn bão ngôn từ ca ngợi cuốn sách đã nổi lên tại Trung tâm văn hóa Pháp.
Nhà văn Lê Minh Khuê hăng hái:
Với tư cách người viết, tôi kính trọng Trần Dần - một người trọng nghề nghiệp, một người lao động nghiêm khắc. Tôi đọc rất nhiều của ông, nhưng rất ngạc nhiên khi đọc Những ngã tư và những cột đèn. Và tôi nghĩ, nếu cuốn này được dịch tốt sẽ không thua kém tác phẩm tốt nào ở nhiều nơi, vùng đất khác .
 Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên hân hoan:
Cuốn tiểu thuyết ra đời, giới văn học hân hoan, khoái trá. Bởi sau Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, rất lâu mới có một cuốn tiểu thuyết đọc sướng như thế. Những ngã tư và những cột đèn là cuốn viết nội dung, không phải kể nội dung. Đọc rồi, đọc lại tôi vẫn thấy háo hức, hồi hộp xem những gì xảy ra tiếp...’.
Nhà thơ Dương Tường đại ngôn:
“Tôi có lẽ là độc giả đầu tiên của Những ngã tư và những cột đèn. Mỗi khi ông viết xong một chương, tôi được đọc. Ở Việt Nam có ai đáng Nobel, người đó là Trần Dần. Nếu không in được tất cả di cảo của ông, không phải thiệt cho Trần Dần mà thiệt cho văn học nước ta. Đọc Trần Dần, người ta thấy khoái cảm chữ, tiếng. Cuốn tiểu thuyết như bữa tiệc ngôn ngữ. Có nhiều trang, chương như thơ”.
Nhà văn trẻ Nguyễn Vĩnh Nguyên cũng cao giọng trên báo SGTT:
Xét về nghệ thuật văn bản, đây là một cuốn tiểu thuyết gây sững sờ cho những độc giả có mối quan tâm và hỏi đòi về sự kiếm tìm kỹ thuật. Những thủ pháp như liên văn bản, phân mảnh tự sự, giễu nhại… của phương pháp hậu hiện đại đã được Trần Dần sử dụng nhuần nhuyễn từ rất sớm với một ý thức cao” .
Nhà phê bình Lại Nguyên Ân sửng sốt:
 "Tôi hoàn toàn bất ngờ vì cuốn tiểu thuyết này. Vẫn biết sự nghiệp Trần Dần lớn và rất đa dạng, nhưng không thể ngờ ông lại hiện đại đến thế".
Tôi đọc những lời “có cánh” này khi chưa đọc tiểu thuyết nên cũng bán tín bán nghi. Thế rồi nhà văn Trần Hoài Dương lúc đó đang còn khỏe mạnh, gọi điện cho tôi:
"Ông đọc “Những ngã tư và những cột đèn" của Trần Dần chưa? Trời ơi, viết lách như thế mà “tụi nó” đưa lên mây xanh...”.
Nghe lời Trần Hoài Dương tôi đành bỏ tiền túi ra mua và trân trọng đọc với nỗi lo canh cánh Phạm thị Hoài đã cảnh báo:
"Phần lớn tác phẩm của ông, mỗi dòng là mỗi riêng một cõi, càng lúc càng riêng, riêng tới mức cực đoan, riêng tới mức bí hiểm phải giải mã, phải cần đến một từ điển Trần Dần, không có cách nào khác là làm phận bản-thảo-nằm”.
 Đọc được mới non nửa tôi đã muốn ngã bổ chửng. Ôi thôi thôi, nào đâu là “bí hiểm phải giải mã”, nào đâu “phải cần đến một từ điển Trần Dần”, nào đâu “Những thủ pháp như liên văn bản, phân mảnh tự sự, giễu nhại…” nào đâu “những thủ pháp hậu hiện đại”?
Nói cho công bằng, đây là một cuốn truyện dễ đọc vì văn chương câu chữ vẫn nằm trong dòng tiểu thuyết miền Bắc những năm 1960, câu chuyện được kể vẫn “tuần tự nhi tiến”, nói cho sang là vẫn “tuyến tính”, chỗ nào nhảy cóc thời gian thì có giới thiệu ngay đầu dòng, cả nhân vật cũng vậy, từ người này chuyển sang người kia đều có nói rõ. Tuy nhiên cái cao hơn cả là cảm hứng dẫn dắt của cuốn truyện là “bôi xấu" những người lính chế độ cũ còn kẹt lại và ca ngợi cán bộ khu phố và công an hết lời. Đây là “cảm hứng thời đại” của những năm thời bao cấp “địch thì xấu thiệt xấu” còn “ta thì tốt thiệt tốt”. Như cô Cốm vợ anh ngụy binh Dưỡng chỉ sau mấy ngày giải phóng - mà tác giả cứ nhắc đi nhắc lại là “ngày tết của dân Hà Nội" (he he) đã học theo cái lối cải cách ruộng đất chạy đi tìm chị cán bộ khu phố để… tố cáo chồng.
Mới đây trên trang web của nhà văn Trần Đức Tiến có bài viết của Trần Nhã Thụy về cuốn “Những ngã tư và những cột đèn” này:
“Nhiều người khen Trần Dần ở cái cuốn này rồi, em không nhắc lại (chỉ muốn nhấn mạnh thêm, hiện giờ những người viết kỹ lưỡng như Trần Dần hầu như đã bị… tuyệt chủng). Nhưng em cũng hơi ngờ anh à. Em ngờ là những bác ấy chưa đọc hết cuốn, mà chỉ đọc 1/2  hay chỉ đọc tới 2/3 là xoa tay, vỗ đùi “tuyệt vời, tuyệt vời”. Nhưng đọc hết thì hóa ra nó không phải vậy
  “Hóa ra cái tay Nhọn cằm ấy không phải là "CÁ", mà là phần tử nguy hiểm từ phía địch nó cài lại, để nó trấn áp tinh thần Dưỡng, để anh chàng dằn di này không còn tâm trí đâu mà nghĩ tới bản danh sách mật (hehe). Hóa ra em Cốm, tưởng khù khờ mà sáng suốt, đùng phát nói ra ngay, tên Nhọn cằm ấy đích thị là địch (mà là địch thật). Hóa ra Tình Bốp cũng là thằng gián điệp cài lại (vậy mà em cứ tưởng, bọn họ ban đầu vốn là những chiến hữu đớp hít rất vô tư, họ chỉ thay hình đổi dạng, đổi tâm đổi tính khi thế cuộc xoay vần, vì sự tồn tại của mình mà trở nên tha hóa...”.
Rốt lại, hóa ra đây là cuốn tiểu thuyết ca ngợi mưu trí tuyệt vời của các đồng chí "CÁ" (điều tra dựa trên các giả thuyết và giả thiết - chỗ này vui - chứ không áp đặt kết luận vội vàng). Hóa ra đây là một cuốn trinh thám xịn, vậy mà em cứ tưởng Trần Dần chỉ mượn hình thức truyện trinh thám để nói về “những ngã tư và những cột đèn” trong đời người. Tất nhiên là nó cũng có cái đó, nhưng em thấy nó ngoại đề, và nhiều chỗ “lem nhem mực tím” làm sao ấy”.
Thực sự tôi không hiểu những người đầy uy tín như Dương Tường, Lê Minh Khuê, Lại Nguyên Ân… ca ngợi “lên mây xanh”một cuốn truyện “thường thường bậc trung” như vậy để làm gì? Hy vọng họ không PR cho nhà Nhã Nam bán sách. Và cũng không hiểu căn cứ vào đâu, ông Phạm Xuân Nguyên dám khẳng định:
"Cuốn tiểu thuyết ra đời, giới văn học hân hoan, khoái trá. Bởi sau Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, rất lâu mới có một cuốn tiểu thuyết đọc sướng như thế".
Thưa ông Phạm Xuân Nguyên, “giới văn học” của ông gồm những ai vậy?
Tất nhiên những điều kể trên xảy ra sau khi nhà thơ Xuân Sách đã quá cố nên thơ chân dung viết về Trần Dần chỉ nhắc tới tên những tác phẩm vốn đã quảng bá trong công chúng:
Người người lớp lớp
                                xông ra trận
Cờ đỏ
              mưa sa
                            suốt dặm dài
Mở đợt phá khẩu
                           tiến lên
                                  nhất định thắng
Lô cốt mấy tầng
                            đè nát vai
Dẫu sông núi cỏ cây làm chứng
Hồn vẫn treo trên
                             Vọng hải đài”

[còn tiếp]
---------------------
* nguồn: blog nhattuan


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét