KỲ 48
Sau tháng 4 năm 1975,
Nguyễn Khải cho ra lò “Gặp gỡ cuối năm”
viết về trí thức ở lại Sài Gòn. Khoảng năm 1980, nhà viết kịch Hồng Phi (anh
ruột nhà văn Chu Lai) ghé tôi kể: "Họp trao đổi về “Gặp gỡ cuối năm” tớ
phát biểu: “Anh Khải ơi, thằng Nhật
Tuấn nó bảo anh đánh người ngã ngựa, không quân tử”. Tôi bảo đây là ý kiến riêng, nói ra làm gì?
Xin nhắc lại câu chuyện tôi
đã viết trong phần đầu loạt bài chân dung này. Năm 1978-79, NXB Văn Học thực
hiện biên soạn Tổng tập văn học Việt Nam. Tôi được giao gặp từng nhà văn để hỏi tác giả muốn
chọn những tác phẩm nào. Một buổi sáng tôi tới nhà Nguyễn Khải ở bãi Phúc Xá.
Lúc đó ông đang ngồi bàn viết, trước mặt là tranh vẽ bìa cuốn “Cha và
con và…” sắp in. Nguyễn Khải chọn đi chọn lại
trong kho chữ của mình rồi bất chợt kêu
lên: "Tung tóe mẹ nó hết rồi Tuấn ơi…”.
Ông nhìn tôi thất thần rồi cười khảy: "Nhưng không sao, tao sẽ vót nhọn
gươm đâm một cú cuối cùng”.
15 năm sau, Nguyễn Khải tưởng đã quên chuyện đó. Tuy nhiên,
chuyển vào định cư ở Sài Gòn, tư tưởng ông dần dà đã thay đổi. Vào khoảng đầu năm
1990, vào dịp đại hội nhà văn TP Hồ Chí Minh, ngoài hành lang vào giờ nghỉ, tôi
gặp Nguyễn Khải hỏi thân mật: "Anh Khải ơi, thanh gươm của anh sao rồi? “. Nhà văn Nguyễn Khải cười bẽn lẽn: "Tớ thương
Đảng lắm. Tớ chưa có ý định
ấy…”.
Tuy nhiên, năm 2000
trong “Nghĩ muộn”, ông đã dám viết:
“Tôi là người viết báo,
chính những đối tượng mà tôi tìm hiểu để viết bài cũng băn khoăn như thế, cũng
có người nói thẳng việc này việc kia đã làm mất lòng người. Nhưng tôi đâu dám
viết, nói cũng không dám, thành ra nói dối, viết dối và sống cũng dối. Căn bệnh
nói dối bắt đầu từ lý thuyết Cách mạng dần dần tách khỏi thực tiễn Cách mạng,
nhưng chỉ có một lựa chọn, hãy bênh vực đến cùng sự đúng đắn của lý thuyết đã
trở thành bảo bối hộ thân của người cầm quyền".
Ông đã nhận ra:
“Nhà chính trị, nhà văn,
nhà khoa học, những người hoạt động trong lĩnh vực trí tuệ điều cốt tử nhất là
phải giữ được sự độc lập trong quan sát, suy nghĩ, tổng kết, không bị bó trong
cái vòng kim cô nào cả, không là tín đồ trung thành của một học thuyết nào cả
để có thể phát huy hết tiềm lực trí tuệ của riêng mình dấn bước vào những cuộc
dò tìm mới".
Không đầy 6 năm sau, tháng
5 năm 2006, Nguyễn Khải đã viết xong tùy bút chính trị “Đi tìm cái tôi đã
mất” như một bản tổng kết đời mình trong văn học. Và cũng không đầy 2 năm
sau, bản “sám hối” này đã lan truyền khắp trên mạng trong nước và ngoài nước và
nghe nói, vào dịp Ban chấp hành TƯ ĐCS VN họp Hội nghị 7, Giáo sư Chu Hảo đã
chuyển bản “Đi tìm cái tôi đã mất” của Nguyễn Khải tới các quý vị trong
Ban Bí thư Trung ương Đảng coi như tài
liệu tham khảo cho Hội nghị dự định bàn
về trí thức.
Đã muộn, vào tuổi “xưa nay
hiếm”, Nguyễn Khải mới đặt bút viết:
“Năm 70 tuổi
tôi bắt đầu chán viết, người rã ra, đọc sách cũng nằm, đọc được mười lăm phút
chữ nghĩa đã lòe nhòe, chả rõ mình đang đọc cái gì. Rồi ngủ. Ngủ như chim, một
chớp mắt đã tỉnh, tiếp tục đọc nốt cái nửa trang đọc dở vẫn cứ lờ mờ vì chả còn
nhớ họ viết cái gì trong cái nửa trang vừa đọc…”.
Vậy là khi ở đời chẳng còn
chút lạc thú gì, nhà văn mới bắt đầu… chán, chán cả công danh, sự nghiệp:
“Cũng năm ấy tôi được trao giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật
đợt 2. Mừng thì rất mừng nhưng tôi đã nhận ra ngay đây là tấm bia mộ sang trọng
cắm lên một đời văn đã tới hồi phải kết thúc. Thế là lại buồn, ra vào ngẩn ngơ
cả tháng".
Giải thưởng Hồ
Chí Minh là tột đỉnh vinh quang của nhà văn cách mạng mà lại coi như “tấm bia sang trọng cắm lên một đời văn” thì quả thực nỗi chết đã ám ảnh Nguyễn Khải
không rời ra rồi.
Thế rồi như phản kháng chiều hướng ngưng trệ của cơ thể, Nguyễn
Khải làm một cuộc xê dịch nữa ra Bắc, trở về quê, nơi nhà văn đã lớn lên và đã
trưởng thành. Thế nhưng cái mảnh đất đầy kỷ niệm đó nay cũng đã trở thành một
nỗi dửng dưng:
“cái
mảnh đất thân thuộc đã hóa ra xa lạ. Đạp xe cả ngày chả gặp người quen nào,
hoặc có gặp nhưng đã là hai ông già ở tuổi bảy mươi làm sao nhớ lại gương mặt
của nhau cái thời mới mười tám đôi mươi... Đường phố không quen, mặt người không quen, còn lại một ông
bạn thân tối ngày đi họp, đủ các thứ hội hè để ông đến họp, vẫn là cái khát
khao của người đã già, đã nghỉ hưu có dịp gặp lại bạn cũ, trò chuyện là chính,
nhắc lại chuyện ngày xưa là chính, rồi than thở, đủ thứ than thở, chuyện nhà chuyện
nước. Cũng buồn nhỉ? Chuyện người già có vui bao giờ, người đã xong một việc
có làm gì cũng không thể vui”.
Rõ ra là một cảm giác rã rời, không còn
tha thiết, gắn bó, không còn bồi hồi kỷ niệm, không còn nghĩ ngợi lo toan
trách nhiệm với quê nhà. Nếu như ngày xưa, trong tiểu thuyết “Chủ tịch huyện”
chân dung những cán bộ xã, huyện, tỉnh được vẽ vời thành những “con người thời
đại” đầy năng lượng, xốc vác, năng nổ vì dân vì nước thì bây giờ, dưới mắt nhà
văn chỉ còn lại là các “quan tham” mặt
mũi đầy…"thịt”:
“Vì
tôi là người có gốc địa phương nên tỉnh ủy có gặp và mời ăn một lần cho phải
phép. Nhưng nhìn những gương mặt quan chức của tỉnh hôm nay mà kinh ngạc. Mặt
người nào cũng đầy những múi thịt, sần sùi, nói nhiều, cười to, lời lẽ nhạt
nhẽo, dung tục, và không bao giờ nhìn thẳng vào mặt mình để nói, cứ như là đang
nói với một ai khác ngồi cạnh mình hoặc ngồi sau mình".
Dường như Nguyễn Khải đã hết e dè, hết giữ gìn, hết sợ ngay cả
quan đầu tỉnh ông cũng hết nể vì như ngày xưa:
“Bữa sắp về Hà Nội, bí
thư tỉnh ủy lại mời gặp, không phải là gặp chính thức mà là cùng ngồi ăn sáng
với ông vì ông cũng đang bận. Buổi gặp vừa hình thức vừa khó chịu vì chỉ có
người lãnh đạo của tỉnh nói, nói như người rao hàng, mắt nhìn đâu đâu, bụng
nghĩ đâu đâu. Tôi chỉ còn nhớ một chuyện, có một ông tướng, là danh tướng,
người địa phương, có đem một giống hoa lạ từ Hà Nội về, tự tay ông trồng ở vườn
hoa của tỉnh ủy vì phải chọn đúng ngày, đúng giờ, cả đúng hướng nữa mới đem lại
thịnh vượng, hạnh phúc cho dân trong tỉnh. Thật vậy sao?".
Khác hẳn ngày xưa, nhà
văn Nguyễn Khải đi đến đâu cán bộ Đảng, chính quyền cũng xúm lại hỏi han, mừng
rỡ, bây giờ hầu như chẳng mấy ai quan tâm tới nhà văn:
“Tôi về một
xã, xã cho tôi ở nhà một anh bưu tá, lúc rảnh rỗi hỏi chuyện gì anh cũng bảo
không biết. Ở xã ba ngày, đảng ủy, ủy ban không ai tiếp cả".
Và thật bất ngờ, cái anh
Chủ tịch xã có tới nhưng nom anh thật chẳng khác gì một anh lái heo:
“Có một buổi
tối có một anh chàng to béo đến chơi với gia đình, cả vợ lẫn chồng nhà chủ ăn
nói thưa gửi, bộ điệu khúm núm. Anh ta ngồi ưỡn người trên ghế tựa, hai chân
xoạc rộng, hai bàn tay đặt lên bụng, nói hỏi trống không, thỉnh thoảng đưa mắt
nhìn tôi nhưng không hỏi gì, chào cũng không, mắt nhìn cứ lừ lừ, mà hắn chỉ
đáng tuổi con tuổi cháu. Tôi cứ nghĩ tay này hẳn là dân buôn bán ở tỉnh có họ
hàng gì với anh chủ nhà, tạt qua chốc lát rồi đi. Nhưng anh bưu tá lại bảo đó
là ông chủ tịch xã. Lại một ngạc nhiên
nữa!“.
Vậy là trở lại quê cũ, con người cảnh vật đã đổi thay, khác
trước hoàn toàn và ông nhà văn có cái nhìn “tổng kết”:
“Trong
mấy ngày xuống xã vừa vui vừa buồn. Ai cũng giàu có hơn trước, nấu cơm bằng nồi
cơm điện, tối xem tivi màu, giờ rảnh thì xem phim bộ. Mỗi xóm đều có cửa hàng
cho thuê băng vidéo, có gái điếm cho ngủ chịu đến mùa trả bằng thóc, có cờ bạc,
có hút thuốc phiện và chích heroin, thành phố có gì ở làng quê đều có, cả hay
lẫn dở, dở nhiều hơn hay".
Chuyến đi đó càng làm Nguyễn Khải
nhận rõ gánh nặng của tuổi già đã chất lên vai ông và từ nay mọi chuyện đã khác:
“Sang
tuổi 70, mọi hoạt động của con người đều chậm, đều kém, riêng cái chuyện viết
lách của tôi vẫn giữ được phong độ gần như xưa, vẫn viết rất nhanh, riêng cái
nhìn thì trào lộng nhiều hơn, ngậm ngùi nhiều hơn. Nó là thứ hương vị thơm ngát
chắt ra từ hơn bảy mươi năm được làm người".
Tuổi 70 như Nguyễn Khải vừa diễn tả dường như đã trở thành một
cái mốc, từ đó ông có những nghĩ ngợi vượt lên trên khỏi những chuyện “xã hội”
– chuyện hàng xã, hàng huyện, ông nghĩ tới những chuyện cao xa hơn. Ông nghĩ về
các thứ chủ thuyết, chủ nghĩa và phải chăng những suy nghĩ sau đây là nhắm vào
học thuyết Mác Lê:
“Học thuyết là do con
người làm ra, một trí tuệ sáng láng nhất vẫn cứ bị ràng buộc bởi nhiều vòng tự
giác và không tự giác của thời thế, của cuộc đời. Bởi vì họ không thể là Thượng
Đế để biết hết vô vàn nguyên nhân những tác động qua lại, uốn éo, bất ngờ của
nó đưa đẩy mọi sự vật tới những thay đổi rất nhỏ, không mấy ai chú ý, cuối cùng
là những biến thiên cực lớn. Chả có học thuyết nào dự đoán đúng những gì sẽ xảy
ra trong tương lai và cũng chẳng thể dự đoán được cái kết cuộc của nhiều sự
việc đang xảy ra trong hiện tại. Mọi lời tiên tri đều có tính mê sảng, đồng
cốt. Dành cả một thời thanh xuân để tin vào những lời tiên tri ấy, về già nhìn
lại cái tài sản tinh thần thâu góp một đời chỉ là một cái kho chứa đủ tạp nham
chẳng có một chút giá trị gì".
Có nhiều cơ sở kết luận Nguyễn Khải nhắm vào cái chủ nghĩa bắt
ông đội lên đầu cái vòng kim cô suốt một đời cho tới tận lúc chết vẫn chưa
được tháo ra – chủ nghĩa Mác-Lênin. Cho
đến tuổi 70 ông mới nhận ra đã dành cả một thời thanh xuân để tin vào chủ
thuyết đó mà thực ra nó chỉ là một cái “kho tạp nham” chẳng có chút giá trị gì.
Sám hối của “con chiên” Nguyễn Khải trước các Giáo chủ về mặt tư tưởng như vậy
là đã không còn nhân nhượng, không còn nể nang mà đã quyết liệt sổ toẹt đi hết.
(còn tiếp)
-----------------------------
* nguồn: blog nhattuan
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét