Thứ Tư, 27 tháng 6, 2012

nhạc sĩ Cung Tiến - nns



Có một ngày, NNS nhận được một mail thăm hỏi của Bác Cung Tiến (gởi cho cả group Thân hữu của Ông, trong đó có NNS) viết bằng một thứ English "thật smooth và academic". NNS ngồi nghĩ Ông Bác đã trên tuổi "thất thập cổ lai hy" sao mà học ở đâu giỏi Anh ngữ thế… hi… hi... Giờ mới rõ, năm 1957 Ông đã từng nhận schoolarship du học bên Úc, cho đến gần 10 năm sau NNS mới sinh ra đời... Rồi đa tài, một bầu chữ nghĩa, lại là dịch giả nữa chứ... Bái phục biết bao cho lớp Cha Anh "bề thế", đáng để người trẻ đi sau học hỏi và hãnh diện:

Cung Tiến  sinh  năm 1938 tại Hà Nội.
Thời kỳ trung học, Cung Tiến học xướng âm và ký âm với hai nhạc sĩ nổi tiếng Chung Quân và Thẩm Oánh.
Trong khoảng thời gian 1957 đến 1963, Cung Tiến du học ở Australia ngành kinh tế và ông có theo tham dự các khóa về dương cầm, hòa âm, đối điểm, và phối cụ tại Âm nhạc viện Sydney.
Trong những năm 1970 đến 1973, với một học bổng cao học của Hội đồng Anh (British Council) để nghiên cứu kinh tế học phát triển tại Cambridge, Anh, ông đã dự các lớp nhạc sử, nhạc học, và nhạc lý hiện đại tại đó.
Vào đầu thập niên 1980 Cung Tiến phổ nhạc từ 12 bài thơ trong tù cải tạo của Thanh Tâm Tuyền mang tên "Vang Vang Trời Vào Xuân", tập nhạc này được viết cho giọng hát và Piano và được trình bày lần đầu tiên tại Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn vào năm 1985.
Năm 1987, Cung Tiến viết nhạc tấu khúc Chinh phụ ngâm, soạn cho 21 nhạc khí, được trình diễn lần đầu vào ngày 27 tháng 3, 1988 tại San Jose với dàn nhạc thính phòng San Jose, và đã được giải thưởng Văn Học nghệ thuật Quốc khánh 1988.
Năm 1992, Cung Tiến hoàn thành tập Ta về, thơ Tô Thùy Yên, cho giọng hát, nói, ngâm và một đội nhạc cụ thính phòng.
Năm 1993, với tài trợ của The Saint Paul Companies để nghiên cứu nhạc quan họ Bắc Ninh và các thể loại dân ca Việt Nam khác, ông đã soạn Tổ khúc Bắc Ninh cho dàn nhạc giao hưởng. Năm 1997, ca đoàn Dale Warland Singers, đã đặt ông một bản hợp ca nhân dịp kỷ niệm 25 năm thành lập ca đoàn nổi tiếng quốc tế này.
Năm 2003, Cung Tiến đã trình làng một sáng tác nhạc đương đại Lơ thơ tơ liễu buông mành dựa trên một điệu dân ca Quan họ. Ông là hội viên của hội nhạc sĩ sáng tác ở Minneapolis, Minnesota, Hoa Kỳ.
Cung Tiến sáng tác rất ít và phần lớn các tác phẩm của ông đều sau 1954, trừ bài Thu vàng, Hoài Cảm được ông viết năm 1953 khi mới 15 tuổi, nhưng chúng thường được xếp vào dòng nhạc tiền chiến bởi cùng phong cách trữ tình lãng mạn.
Tự nhận mình là một kẻ amateur trong âm nhạc, viết nhạc như một thú tiêu khiển, Cung Tiến không chú ý tác quyền và lăng xê tên tuổi mình trong lĩnh vực âm nhạc.
Các nhạc phẩm Hoài Cảm, Hương xưa (viết tặng Duy Trác) của ông được xếp vào những ca khúc bất hủ của tân nhạc Việt Nam.
Là một người đa tài, ngoài Nhạc, Ông còn đi vào lãnh vực Văn chương, như:
- Dịch hai đại tác phầm của hai văn hào Nga là Fyodor Mikhailovich Dostoevski và Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn ra Việt Ngữ.
- Hồi Ký Viết Dưới Hầm (bản dịch tác phẩm của M. Dostoievski, 1969). Vào năm 1864 Dostoevski cho xuất bản cuốn Hồi Ký Viết Dưới Hầm là tác phẩm về chủ nghĩa hiện sinh hay nhất từng được viết trong nền văn học của thế giới.
- Một Ngày Trong Ðời Ivan Denissovitch (dịch từ A. Solzhenitsyn, 1969).
Một Ngày của Ivan Denissovitch kể về những gì xảy đến cho một người tù cải tạo tên Ivan Denissovitch trong một ngày dưới chế độ bạo ngược cộng sản Stalin.
Trong lãnh vực văn học, giữa thập niên 50 và 60, với bút hiệu Thạch Chương, Cung Tiến cũng đã từng đóng góp những sáng tác, nhận định và phê bình văn học, cũng như dịch thuật, cho các tạp chí Sáng Tạo, Quan Điểm, và Văn.
Nhóm Sáng Tạo là nhóm nổi tiếng nhất xuất phát từ phong trào di cư từ miền Bắc 1954. Hoạt động của họ là mở một con đường mới về ngôn ngữ hình ảnh cũng như về lý tưởng tự do, ông hợp tác với họ bằng những bài viết về triết học cũng như những nhận định âm nhạc lúc đó ông đã đi du học.
Thế hệ trẻ về sau là lớp học trò của Nguyễn Sỹ Tế, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền chắc chắn chịu nhiều ảnh hưởng của Sáng Tạo. Sau khi định cư tại Hoa Kỳ, ông có viết cho một số báo với bút danh là Đăng Hoàng.

Nhạc sĩ Cung Tiến tâm tình cùng phóng viên Mặc Lâm:
  
Ngày thứ Năm, 13 tháng 4, năm 2006, phóng viên Mặc Lâm của đài RFA phỏng vấn nhạc sĩ Cung Tiến và những sáng tác và hoạt động âm nhạc trong những thập niên đã qua như sau:
- Mặc Lâm: Là một người yêu thích âm nhạc và có những nhạc phẩm nổi tiếng rất sớm như: Hoài Cảm, Thu Vàng, Hương Xưa... lý do nào khiến ông trở thành một chuyên gia kinh tế học và ông có cho rằng kinh tế và âm nhạc là hai lĩnh vực khó hòa hợp lẫn nhau hay không?
- Nhạc sĩ Cung Tiến: Câu hỏi này nó có hai phần một phần là tại sao tôi trở thành chuyên gia kinh tế học và một phần là giữa âm nhạc và kinh tế có hòa hợp với nhau hay không. Tôi được học bỗng kinh tế học vì âm nhạc không phải là ngành mà ngoại quốc cho chính phủ VNCH hồi đó. Sự thực thì âm nhạc và kinh tế không phải là khó hòa hợp vì cả hai đều là nghệ thuật cả. Kinh tế học không phải là một khoa học mà là một nghệ thuật giữa kẻ mua người bán, giữa người sản xuất và người tiêu dùng, cho nên nếu không hòa hợp được thì cũng không thể xung khắc lẫn nhau.
- Mặc Lâm: Ông đã từng cộng tác với nhóm Sáng Tạo rất sớm qua bút hiệu Thạch Chương bằng những bài viết và dịch thuật, ông có nhận xét gì về hoạt động cũng như ảnh hưởng của nhóm này?
- Nhạc sĩ Cung Tiến: Nhóm Sáng Tạo là nhóm nổi tiếng nhất xuất phát từ phong trào di cư. Hoạt động của họ là mở một con đường mới về ngôn ngữ hình ảnh cũng như về lý tưởng tự do. Tôi hợp tác với họ bằng những bài viết về triết học cũng như những nhận định âm nhạc lúc đó tôi đã đi du học. Thế hệ trẻ về sau lớp học trò của Nguyễn Sỹ Tế, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền chắc chắn là chịu nhiều ảnh hưởng của Sáng Tạo.
- Mặc Lâm: Được biết Thanh Tâm Tuyền là bạn thân của ông, xin ông cho biết một vài kỷ niệm đối với tài thơ này nhân kỷ niệm một năm ngày mất của thi sĩ.
- Nhạc sĩ Cung Tiến: Tôi quen Thanh Tâm Tuyền năm 1956 khi tôi theo học năm cuối cùng của trung học tại Chu Văn An, lúc ấy Thanh Tâm Tuyền mới vào Nam theo làn sóng di cư của sinh viên. Hành trang du học của tôi chỉ có mấy quyển sách, trong đó có hai quyển Tôi Không Còn Cô Độc của Thanh Tâm Tuyền và Tháng Giêng Cỏ Non của Mai Thảo. Cho tới khi tôi về nước vào năm 1963 tôi mới gặp lại Thanh Tâm Tuyền và chúng tôi có những quan hệ thân thiết hơn.
- Mặc Lâm: Thưa ông có phải văn chương cực kỳ lạ lẫm của Thanh Tâm Tuyền đã khiến ông phổ nhạc hai bài Đêm Lệ Đá Xanh hay vì lý do dễ hiểu hơn vì nhà thơ là bạn thân của ông?
- Nhạc sĩ Cung Tiến: Tôi thấy bài thơ rất buồn và rất độc đáo. Bài thơ này tôi phổ ở Sydney năm 1957 với mục đích gửi tặng Phạm Đình Chương. Mãi sau này tôi mới phổ bản Đêm của Thanh Tâm Tuyền trong tập thơ Liên, Đêm Mặt Trời Tìm Thấy.
- Mặc Lâm: Bên cạnh Thanh Tâm Tuyền là một nhà thơ khác trong nhóm Sáng Tạo cũng được ông quan tâm đó là nhà thơ Tô Thùy Yên, Với thi phẩm Ta Về ông đã sáng tác nhiều loại hình âm nhạc cho tác phẩm này, xin ông cho biết vài chi tiết về việc này.
- Nhạc sĩ Cung Tiến: Tập thơ Ta Về của Tô Thùy Yên lọt ra khỏi trại cải tạo và Mai Thảo đưa cho tôi xem vài bài trước khi Tô Thùy Yên định cư tại Mỹ. Tôi đã soạn cho bài thơ này trở thành những giọng ngâm, hát, nói với những nhạc cụ tây phương phụ đệm.
- Mặc Lâm: Thưa ông, từ nhạc phẩm đầu tay là bản Hoài Cảm được sáng tác năm 1953 cho đến nay đã có bao thăng trầm trong đời sống riêng cũng như của toàn dân tộc, ông có nhận xét gì về nhạc phẩm này và điều gì vẫn còn in đậm trong lòng ông cho tới bây giờ sau khi nhạc phẩm này ra đời?
- Nhạc sĩ Cung Tiến: Đây là ca khúc đầu tiên của chúng tôi viết từ năm 1953 lúc đó tôi mới 14 tuổi lúc tôi mới học đệ lục nó là ca khúc hoàn toàn trữ tình của một học sinh ảnh hưởng thơ mới lãng mạn của Huy Cận, Xuân Diệu... Riêng với tôi nó là đứa con đầu lòng vẫn còn được thính giả yêu thích tôi vẫn thích vì nó giản dị và là một thời học trò của mình.
- Mặc Lâm: Cảm ơn Nhạc sĩ Cung Tiến.
Cung Tiến quả thực là một người đa tài, ông mang nhiều vai trò xã hội, ông là một chuyên viên cũng như giảng viên giảng dạy về kinh tế, tài chánh, một nhà văn đóng góp cho văn học Việt Nam. Và đáng lưu tâm hơn cả, ông là một nhạc sĩ của khuynh hướng nhạc lãng mạn trữ tình trong vườn hoa âm nhạc Việt Nam, điển hình là hai ca khúc bất hủ: Hương Xưa Hoài Cảm (như Cung Tiến viết "Hoài Cảm" ở giọng đô thứ cung đô thường nên bài ca mang tính dân tộc rất cao... và trước năm 1975 đã có rất nhiều ca sĩ thể hiện “Hoài Cảm” nhưng có lẽ chưa có ai thể hiện “Hoài Cảm” lại “Hoài Cảm” bằng Lệ Thu).



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét