nguyễn đức sơn: ngọn lửa tịch mịch - đinh cường
Hình: Đinh Cường
Nguyễn Đức Sơn, sơn dầu ĐC 1989
Thiệp ơi, đọc tháng "Tư, nhớ về Saigon" của bạn trên blog
Nguyễn Xuân Hoàng và bạn hữu… bạn nhắc ở cuối bài, tháng tư vọng lên câu chửi
thề nổi tiếng của thi sĩ Sơn Núi làm tôi nhớ Nguyễn Đức Sơn hỗn danh Sơn Núi
quá, lật những trang trong quyển vở đã ố vàng, tìm lại những câu thơ mà Sơn đã
ghi trong đó, năm 1987, có câu chửi thề nổi tiếng (Ian Bùi đã dịch ra tiếng Anh
rất hay) ghi lại cho đúng như thế này:
Đụ mẹ
Cây
bông
Hắn không
Lao động
Ai trồng
Chật chỗ
Mày nhổ
Xem sao
Máu trào
Hắn không
Lao động
Ai trồng
Chật chỗ
Mày nhổ
Xem sao
Máu trào
Thiên cỗ
Và bài kế tiếp:
Bông hồng
Mới
nở
Mắc cỡ
Đời hay
Hương sắc
Ai bày
Sáng nay
Ta chết
Mắc cỡ
Đời hay
Hương sắc
Ai bày
Sáng nay
Ta chết
Từng câu hai chữ, chữ đầu viết hoa… Sơn Núi rất kỹ và khó
tánh, sai một chút là chàng ta chửi thề. Đọc hai bài trên, nhớ lại tập Du Sỹ
Ca, tác phẩm thứ mười một của Nguyễn Đức Sơn, An Tiêm xuất bản năm 1973, có
đoạn gần cuối, trang 35:
Đinh Cường
NĐS và Phượng
với con trai 1987
Địa cầu
Địa
cầu
Rồi đây
Lụi hụi
Tới ngày
Quá vui
Mày tan
Thành bụi
Tro than
Mê man
Mở đùi
Ta khụi
Kẻo rủi
Một mai
Ai tới
Ai lui
Ai chùi
Vắng lặng
Rồi đây
Lụi hụi
Tới ngày
Quá vui
Mày tan
Thành bụi
Tro than
Mê man
Mở đùi
Ta khụi
Kẻo rủi
Một mai
Ai tới
Ai lui
Ai chùi
Vắng lặng
mới thấy thi sĩ là kẻ tiên tri… nói như Rimbaud, địa cầu như
càng ngày càng nóng lên với bao nhiêu trận động đất vừa qua… Cuối tập, tác giả
viết: Bài vè này tưởng đã được hoàn tất
giữa một đêm rạng sáng ở nhà, trong một cái lò bánh mì đốt củi cũ mục bỏ hoang,
đột hứng, tác giả đã phóng đại triển khai thêm một nửa số câu, nằm viết trong
nhà đá lởm chởm, nhầy nhụa, chật cứng, bít bùng, chỗ giam của Quân Cảnh Tư Pháp
Bảo Lộc, khuya 25 tháng 8 năm 1972 lúc đã được hốt từ lao tỉnh qua.
Như vậy, câu chửi thề mà Thiệp nhớ, với Sơn là dạng một bài
vè ghi lại trong một hoàn cảnh đáng nguyền rủa, ngộp thở… lao động là vinh
quang.
Có nên nhắc lại một ít về Sơn (1) không? Cứ nhớ giọng đọc
của Trương Hồng Sơn, tiến sĩ toán, làm việc tại NASA, Maryland, người bạn học
cùng lớp với Nguyễn Đức Sơn thời trung học ở Nha Trang:
Đinh Cường
NĐS và mini honda
Khi thấm mệt tôi đi luồn ra núi
Cuối
chiều tà chỉ gặp bãi hoang sơ
Bước lủi thủi tôi đi luồn vô núi
Nghe nắng tàn run rẩy bóng cây khô
Chân rục rã tôi đi luồn ra núi
Hồn rụng rời trước mặt bãi hư vô
Bước lủi thủi tôi đi luồn vô núi
Nghe nắng tàn run rẩy bóng cây khô
Chân rục rã tôi đi luồn ra núi
Hồn rụng rời trước mặt bãi hư vô
Cùng học với thầy Nguyễn Đức Nhơn
(thân sinh của Nguyễn Đức Sơn) dạy Pháp văn và thầy Thạch Trung Giả dạy Việt
văn, người thầy Sơn rất kính nể.
Trong thư gửi cha từ Blao đề ngày
19.8.1972 thay lời tựa cho tập thơ Tịnh Khẩu: “…Bởi con mà có cái tham vọng gì, con một thằng sống bằng lửa tịch mịch,
bằng hơi lạnh thiên thu, đến cả mộng mơ đích thực còn không có, hay chỉ có toàn
là mộng không:
Sáng mênh mông
Ta đi thơ thẩn trong vườn hồng
Ô bông, ồ mộng, ồ không.
Ta đi thơ thẩn trong vườn hồng
Ô bông, ồ mộng, ồ không.
Ba không thấy sao, chính cái bọn
tự cho mình là trượng phu, là kẻ sỹ, lại là bọn người tha thiết nằm trong cái guồng
máy vô tâm, thúc hối cái guồng máy đó nghiền nát không những bao kẻ phiêu hốt
mà luôn cả những kẻ nào còn mang trong người chút xíu lẽ công bình còn sót lại
với trời đất. Vả chăng, thanh minh, bày tỏ cái gì nữa đối với cái thằng đàn ông
đã lê tới và đã đi qua cái đỉnh tịch mịch khốc liệt chưa từng thấy là con? Ôi cái
giọng của con, cái giọng thơ văn con, mà ngay cả một người đầy tâm huyết và khí
phách với bản tính vô cùng thận trọng là nhà văn hóa đầu bạc phơ Nguyễn Hiến Lê
cũng cho là “khác cả thế hệ này nữa vì cá tính quá đặc biệt”.
Bửu Ý trong một tự truyện đăng
trên Văn năm 1973 đã viết về
Sơn là “hình ảnh của con tê giác, từ tính tình
đến cách ăn nói, dáng đi. Húc bừa về phía trước không kể thiệt hơn, không tính
hậu quả. Thêm thù và bớt bạn. Đơn độc quắc queo. Dã man nghiệt ngã. Chỉ thong
dong ở chốn không người: rừng và biển...”.
Đinh Cường
NĐS - ĐC trước
căn chòi NĐS 2005
Thật vậy, không ai đánh đổi cả đời mình với rừng như Sơn
Núi. Sơn vẫn ở riết trên Phương Bối Am từ sau 1975 đến nay (Phương Bối Am là
một vùng đồi rộng ở Bảo Lộc từ Sài Gòn đi quốc lộ 20 lên Đà Lạt, qua cầu Đại Lào,
bên tay trái, đi sâu vào xã Lộc Châu tới con dốc dẫn lên một vùng đồi rộng là
Phương bối Am. Thầy Nhất Hạnh đã xây một thiền thất giữa đồi thông mênh mông,
thơ mộng ấy. Sau 1975, ngôi nhà bị sập, cả vùng đồi tan hoang, chỉ còn lại cái
bể cạn lớn, khô nước, trơ bốn vách tường xi măng). Sơn đã đưa gia đình lên đó,
che cái mái tranh, vách ván, cả nhà chui vào ở. Sơn, Phượng vợ Sơn cùng chín
đứa con, bảy trai hai gái: Thạch, Vân, Thảo, Thủy, Không, Lão, Yên, Phương Bối,
Tiểu Khê. “Những đứa trẻ lớn lên cũng hoang
dại như núi rừng, không cách chi sinh sống được. Nên tất cả đều lần lượt được
gửi vào nương náu nơi cửa chùa. Ngoại trừ Thạch đã có cuộc sống riêng và cắt
đứt liên hệ với gia đình, Thảo nằm kia từ lâu lắm, nấm mồ chơ vơ trên ngọn đồi
yên ả mây bay. Vân từ chối cơ
hội sang Pháp tu học, tạm quay về để gom tất cả bốn người em trai, nuôi ăn học
lại dưới một mái nhà tại chân Phương Bối, trong đó Thủy đang theo học cao cấp
Phật học tại Sài Gòn. Yên, Không, Lão rời chùa về nhà theo thế học”. (Mùa
hạ, về Phương Bối – Hàm Anh).
Năm 2005, tôi ghé thăm Sơn Núi. Trên đường lên Đà Lạt, Sơn
hẹn ở một quán cà phê quen thuộc bên đường quốc lộ gần cầu Đại Lào rồi đi chiếc
xe gắn máy cỡ nhỏ hướng dẫn về nhà. Bây giờ đường đi đã mở rộng, xe hơi vào đến
đậu ở chân đồi. Trưa im vắng giữa đồi thông xanh lao xao gió, chúng tôi ngồi ăn
mâm cơm chay cùng nhau trên nền xi măng cao bên hông căn chòi nhỏ Sơn ở một
mình… Nhà gỗ bên dốc trái là Phượng ở cùng hai cô con gái út Phương Bối, Tiểu
Khê, rất xinh đẹp, đang học trung học. Tôi còn gặp cháu Yên, người gầy cao
giống mẹ, bị chứng đau mắt nặng, ngồi trong bếp phụ mẹ làm cơm trưa đãi khách.
Một buổi trưa thật cảm động, với buồng chuối sứ Sơn chặt đem vào… khoe tài
trồng chuối, trồng mít của mình ngoài tài trồng cả rừng thông quanh Phương Bối,
mà kể lại là cả một câu chuyện dài… đầy máu và nước mắt về Sơn Núi…
Đinh Cường
Phượng - ĐC -
Phương Bối 2005
Cũng vui là những năm gần đây, Sơn Núi đã chịu tiếp các nhà
báo, nhà làm phim để phỏng vấn, viết và quay phim về mình: “Sơn Núi” - Lão du sĩ cuối cùng, bài về
mỗi tuần một chân dung của Lê Quang Kết trên Thể Thao & Văn Hóa, số 49 - 18.6.2002
Trang Phóng sự & Ký sự báo Tuổi Trẻ ngày 6.7.2002 với bài của Quốc Việt: Ẩn sĩ cuối
Cùng và đồi thông Phương Bối: …”. Vừa nói lão vừa dẫn tôi lang thang tham quan đồi thông rộng xấp xỉ 30 ha
của mình. Khoảng vài ngàn ngọn thông lớn nhỏ, nhiều cây cao đã 6 - 7 mét. Nhưng
rồi ngậm ngùi biết bao khi lão lần xuống triền đồi và chỉ cho tôi xem hàng ngàn
cây thông nhỏ với những lỗ đất trống không xen kẽ khắp nơi. Tôi cứ trồng xuống,
nguời ta lại nhổ lên, rồi tôi lại trồng xuống… Kể về mình, lão đã cười đến chảy
nước mắt khi nói đến độc chiêu để bảo vệ thông. Cứ cây nào ra cành đẹp là lão
phéng ngay cành đó để chặn mấy tay vô tâm chỉ vì một cành ưng ý mà hạ luôn cả
cây. Rồi gần đến mùa Noel lão sẽ châm lửa đốt rừng thông lớn của mình, do thông
lớn gặp than lửa sẽ không chết mà càng cao tốt thêm trong khi những cành bên
dưới sẽ xấu đi…”.
Sơn ký tặng tôi CD ghi lại Buổi giao lưu của đoàn phim HTV
về tác giả Nguyễn Đức Sơn với Hải Chuyên, người đẹp dẫn chương trình…Với tôi, thông với thơ là một. Trong núi thơ có đồi
thông. Trong đồi thông có núi thơ. Núi thơ là đồi thông. Đồi thông là núi thơ. Câu
mà tôi ghi nhớ nhất của Sơn trong phần trả lời các câu hỏi… và bài thơ Sơn ghi
trên mặt CD:
Ngày
mai núi cũ tôi về
Dĩ nhiên hạnh phúc
tràn trề em ơi
Thơ bay từ cổ ngút trời
Quanh năm bảo đảm tuyệt vời nước mây
Cớ sao đãng tử bậc thầy
Hỏi ra từ đá tới cây lắc đầu
Thơ bay từ cổ ngút trời
Quanh năm bảo đảm tuyệt vời nước mây
Cớ sao đãng tử bậc thầy
Hỏi ra từ đá tới cây lắc đầu
Sơn Núi, đãng tử bậc thầy đúng vậy, và nhắc đến bạn là từ đá
tới cây lắc đầu thật. Nhưng sao trong lòng tôi vẫn luôn nghĩ đến một
người bạn quý hiếm, đã đánh đổi cả cuộc đời mình cho Ông Nghệ Thuật, như lời bạn nói.
*******************************
(1) Nguyễn Đức Sơn sinh ngày 18 Nov.1937 tại làng Dư Khánh
(Thanh Hải) gần bên bờ biển Ninh Chữ tỉnh Bình Thuận. Học trung học Võ Tánh Nha
Trang, Đại học Văn Khoa Saigon 1967.
Đã xuất bản 3 tập truyện ngắn Cát Bụi Mệt Mỏi (An Tiêm 1968), Cái Chuồng Khỉ (An Tiêm 1969), Xóm Chuồng Ngựa (An Tiêm 1971) và tập Ngồi Đợi Ngoài Hành Lang chưa in, 11 tập
thơ: Bọt Nước (Mặt Đất 1966), Hoa Cô Độc (Mặt Đất 1965), Lời Ru (Mặt Đất 1966), Đêm Nguyệt Động (An Tiêm 1967), Mộng Du Trên Đỉnh Mùa Xuân (An Tiêm 1972),
hai tập cuối cùng là Tịnh Khẩu
(An Tiêm 1973) và Du Sỹ Ca (An
Tiêm 1973).
Bút hiệu đầu tiên Sao Trên Rừng đã cộng tác với các tạp chí:
Bách Khoa, Sáng Tạo, Thế Kỷ Hai Mươi, Văn Nghệ, Khởi Hành, Văn…
Truyện ngắn Ý Tưởng
Chiều Tà in trong Những truyện
ngắn hay nhất của quê hương chúng ta.
Bài thơ tôi
thích nhất của Nguyễn Đức Sơn: Đêm thăm bạn
sắp đẻ ở Di Linh (trong Thơ Tự
Do Miền Nam, Thư Ấn Quán xuất bản).
Virginia Thứ Hai, 26 tháng 4 2010
----------------------------
* nguồn: blog
nguyenxuanhoang&banhuu
**************************************************************************
**************************************************************************
nguyễn đức sơn: chân dung & huyền thoại - nguyễn mạnh trinh
Ông là người làm thơ mà cuộc sống văn chương và đời thường đã tạo thành nhiều huyền thoại. Những chuyện kể về, những giai thoại nói đến, một chân dung tác giả khác thường được tạo dựng và người đọc, không phải chỉ ở những lớp sau mà ngay ở lớp cùng thời, đã có những nhận định sai lạc về chân dung thực con người thực. Ðó là không kể, như ở trong nước, vì lý do lợi nhuận đã có những cuốn sách khai thác quá độ đời tư để đến thành những khoảng cách thật xa với thực tế.
Bao nhiêu quyển sách, bao nhiêu bài báo đã nói về Bùi Giáng, về Trịnh Công Sơn, về Nguyễn Ðức Sơn… Và đã có bao nhiêu ngộ nhận xảy ra vì những chi tiết trái ngược nhau từ bài viết này với cuốn sách khác của một chân dung tác giả. Ðộc giả, có lẽ phải có sự cẩn thận khi tiếp cận với những vấn đề đó.
Thí dụ, như trường hợp nhà thơ Nguyễn Ðức Sơn. Có rất nhiều bài viết về ông, của những người quen thân có, quen sơ có và nhiều khi không quen cũng tự nhận là quen có. Trong đời thường, Nguyễn Ðức Sơn có nhiều bi kịch. Và nhiều bài viết khai thác những bi kịch ấy. Thí dụ như “Người đàn bà trên đồi cỏ” của Ðào Hiếu đăng trên báo Xuân Doanh Nhân Sài Gòn cuối năm 2008.
Ðào Hiếu viết về mối tình của Nguyễn Ðức Sơn và Phượng đầy thiên kiến và hình như bày tỏ một nhận xét nào không thiện cảm. Và lạ lùng cũng đều nhắc đến Trịnh Công Sơn:
“Nhưng tôi biết nàng rất đẹp.
Trịnh Công Sơn cũng biết nàng rất đẹp".
Nguyễn Ðức Sơn thì chửi bới nguyền rủa mọi thứ. Tôi nói: "Tôi đến đây để tìm một Nguyễn Ðức Sơn vĩ đại nhưng tôi chỉ gặp một Phượng vĩ đại. Nếu không có người đàn bà này, ông đã chết rồi Sơn ạ!…
… Năm 1972, Nguyễn Ðức Sơn trốn lính về tá túc ở Bình Dương dạy Anh văn tại một tư thục. Nếu không gặp Phượng hắn sẽ chẳng có tác phẩm nào ra hồn. Phượng rọi hào quang của nàng vào cái đầu mê gái tơi bời của hắn và hắn được cô “độ” cho thành… thi sĩ. Tác phẩm “Ðêm nguyệt Ðộng” ra đời từ dòng nước cam lồ róc rách tuôn ra từ nhục thể của “thánh cô Annie Phượng”.
….Nhưng những vần thơ mê gái thượng thừa ấy cũng không lay động được Annie Phượng. Chàng khóc lóc rên xiết quỳ lạy… cũng chẳng ăn thua bèn dùng khổ nhục kế. Nếu như ngày nay thì chàng thi sĩ sẽ quấn chất nổ quanh mình rồi lao vào “đánh bom tự sát” nhưng Nguyễn Ðức Sơn thời đó đã trèo lên thành giếng và kêu lên “Bớ Chúc Anh Ðài! Ta chết đây” làm Phượng hoảng hốt. Cuộc hôn nhân bắt đầu như vậy… ”Cuộc sống của gia đình Nguyễn Ðức Sơn ở Phương Bối Am cũ là một thảm kịch. Sống như những sơn nhân, thiếu thốn tiện nghi đời sống và luôn luôn bị cái đói đe dọa. Một bữa cả gia đình gồm hai vợ chồng và 3 đứa con bị trúng độc vì ăn rau rừng và một đứa con bị chết. Bà mẹ phải lấy áo rách của mình ra vá để khâm liệm cho con.
Một lần khác khi chữa cháy rừng Phượng bị phỏng nặng. Nguyễn Ðức Sơn và người con trai lớn Nguyễn Ðức Vân phải băng rừng cáng ra nhà thương tỉnh cứu cấp với bệnh tình rất trầm trọng.
Ðào Hiếu kể:
“Ba hôm sau Trịnh Công Sơn từ Sài Gòn lên ghé bệnh viện Bảo Lộc.
“Sơn Núi” hỏi “mày lên đây làm gì?”.
Sơn Nhạc Sĩ đáp: ”Thăm Phượng. Sao nỡ hành hạ người ta đến vậy?”.
“Sơn Núi” bỏ đi. Trịnh Công Sơn ở lại với các con của Phượng. Có lẽ hôm đó là một ngày của năm 1982. Tôi không biết và các con của Phượng cũng không biết chính xác là ngày nào và tháng nào. Trịnh Công Sơn đã tặng cho gia đình Nguyễn Ðức Sơn 60 triệu đồng. Thời điểm đó số tiền ấy rất lớn. Nó đã cứu Phượng và giành giật Phượng khỏi tay tử thần".
Một nhà văn cũng quen thân với Nguyễn Ðức Sơn là Nguyễn Ðạt nhận xét về bài viết của Ðào Hiếu:
“Và bài báo của Hà Danh (tức Ðào Hiếu) lúc tôi đọc ở Sài Gòn thấy có nhiều sự kiện về Sơn Núi, về Phượng quá lạ lùng quá không đúng sự thật như tôi biết. Nói chung đọc xong cả bài “Người đàn bà trên đồi cỏ” tôi muốn đề nghị tác giả nên chuyển thể thành một vở tuồng cải lương và Hà Danh rất có khả năng trở thành một soạn giả cải lương ăn khách nhưng khác hẳn với những sọan giả tuồng cải lương như Viễn Châu. Tôi chưa thấy Viễn Châu dựng khống một sự kiện liên quan trực tiếp tới nhân vật vụ việc nào có thật ở ngoài đời. Nên khi tôi vừa lấy tờ báo ra Sơn Núi liền nói: “Đ.m. cái lão đào hang càng đào sâu càng tối đặc!”. Tôi không hiểu gì hết. Hóa ra, Sơn Núi gọi nhà văn Ðào Hiếu là đào hang và Sơn Núi nói Hà Danh là bút hiệu khác của Ðào Hiếu. Tôi rất ngạc nhiên khi biết vậy và khá buồn bởi tôi quen biết nhà văn Ðào Hiếu và mến ông. Tôi thấy Ðào Hiếu là một người rất văn nhã lần gặp gần nhất tại một quán cà phê trên đường Trần Quốc Thảo tôi nhận lời viết về Nguyễn Ðức Sơn cho trang web của ông, hình như tên là ”Lề bên trái”. Sau đó tôi được nhiều người bạn cho biết những gì Ðào Hiếu viết không bảo đảm trung thực nên tôi không thể viết bài về Nguyễn Ðức Sơn cho báo mạng của nhà văn Ðào Hiếu được dù đã nhân lời.
Sơn Núi nói: “không thể hiểu lão đào hang ở chỗ nào ra cái vụ việc “nhạc sĩ hàng đầu về đầu hàng” họ Trịnh cho tôi sáu chục triệu đồng nhờ đó Phượng thoát chết". Phượng, Nguyễn Ðức Lão con trai út anh của hai cô em sinh ra sau chót năm nay 27 tuổi, và Tiểu Khê con gái út của Sơn núi cũng không hiểu người viết bài về họ lấy ở đâu ra vụ việc Trịnh Công Sơn tặng Nguyễn Ðức Sơn sáu chục triệu đồng vào cái năm một chín tám mấy đó số tiền ấy rất lớn. Phượng nói: “Trịnh Công Sơn ghé lên đây hai lần trong một chuyến đi chơi ở Ðà Lạt. Lúc lên tặng một thùng mì chay ăn liền lúc về tặng một thùng “légume” Ðà Lạt, vậy thôi, chớ làm gì co vụ việc sáu chục triệu đồng". Sơn Núi xác định thêm: “Ông không tin cứ hỏi Bửu Ý, người rất sùng mộ Trịnh Công Sơn và rất không ưa tôi, coi Bửu Ý nói sao về vụ việc Trịnh Công Sơn cứu tử hoàn sanh bà xã tôi với số tiền sáu chục triệu đồng”. Ngay sau khi đọc bài báo tôi hỏi họa sĩ Trịnh Cung bạn thân của Trịnh Công Sơn có biết vụ việc nhạc sĩ họ Trịnh tặng Sơn Núi 60 triệu? Trịnh Cung bảo không biết vụ đó. Thế thì tôi cực kỳ ngạc nhiên không thể hiểu nhà văn Ðào Hiếu lấy ở đâu ra cái tin động trời đất đó. Trong bài ký tên Hà Danh ông viết đại ý rằng ông không nhớ rõ, những người con của Phượng cũng không nhớ rõ ngày tháng nào nhưng là những năm của thập niên 1980 và 60 triệu đồng của Trịnh Công Sơn tặng thời gian đó là lớn lắm. Tôi hỏi Sơn Núi – Ðào Hiếu "phịa” chuyện ấy thì quá sức bậy, người trong vụ việc có thể thưa kiện ở tòa án không hiểu sao Ðào Hiếu lại phịa như vậy nhỉ? Sơn Núi nói ngay ”Thì lão muốn gia nhập “fan club” của Trịnh Công Sơn mà ông không thấy một loạt bài đánh bóng Trịnh Công Sơn trong tờ báo này hả? Này lão đào hang viết ”Tôi thấy Phượng đẹp / Trịnh Công Sơn cũng thấy Phượng đẹp. Phải lôi lão “nhạc sĩ hàng đầu về đầu hàng” cùng khen Phượng đẹp thì Phượng mới đúng là đẹp”.
Tôi không biết nhà văn Ðào Hiếu gặp Phượng từ năm nào, chứ từ vài chục năm nay, Phượng quá hom hem gầy guộc. Tôi xót xa khi thấy Phượng “lai”, là lai người dân tộc Tây nguyên ở vùng sâu vùng xa chứ không được như người dân tộc ở thị xã B’lao này. Bài báo “Người đàn bà trên cỏ”, câu chuyện tào lao trá ngụy, Sơn Núi và tôi thà nói chuyện bậy bạ thô tục còn hay hơn sáu chục triệu lần...”.
Một thực tế văn học là nhiều khi những huyền thoại văn chương lại phát nguồn từ những bài viết khơi khơi như thế. Ở trong nước với người đọc của dân số hơn 80 triệu một thị trường béo bở thì việc để câu khách lôi kéo độc giả cho mục đích bán sách bán báo, đã có bao nhiêu bài viết về Trịnh Công Sơn, về Bùi Giáng, về Phạm Công Thiện, về Nguyễn Ðức Sơn... tràn lan như một mốt thời thượng. Thành ra, con người nghệ sĩ của văn chương nhiều khi bị nhòa nhạt đi vì những bài viết kiểu của ông “lạc đường” Ðào Hiếu này.
Nguyễn Ðức Sơn, một nghệ sĩ quái dị. Một trong những nhà thơ tiêu biểu của hai mươi năm văn học miền nam. Một trong những nhà văn luôn đi tìm trong cuộc sống những câu trả lời không thể trả lời. Một trong những người không thể thỏa hiệp với cuộc đời và đi ngược dòng sống với thái độ hung hăng gây gổ. Một trong những người sống trong những bi kịch của loài người. Một trong những người sống phân hai giữa đời thơ và đời thường, giữa tu tập và buông thả, giữa dục tính và lãng mạn. Thế giới của Nguyễn Ðức Sơn là một thế giới kỳ quặc mà con người phân chia thành nửa này nửa kia luôn luôn chống đối nhau và không bao giờ thỏa hiệp với nhau. Nguyễn Miên Thảo đã viết về mẫu người thi sĩ đặc biệt này:
“Nguyễn Ðức Sơn là một người đầy cá tính mà nếu không hiểu thì tưởng là khó tính. Tính cách của ông khác người luôn luôn mâu thuẫn với chính mình. Tôi nghĩ sự “va chạm” nội tại đã đưa ông tới đỉnh điểm của sáng tạo trong tác phẩm của ông. Tâm địa của ông thì rộng bao la nhưng hay… thù vặt, rất mê chủ nghĩa Cộng sản nhưng không ưa “cách mạng” sẵn sàng chửi cả những người khen ngợi ông dù người khen rất thật tình và có nhân cách nhưng trong bụng Nguyễn Ðức Sơn thì sướng rơn. Tôi ví dụ một câu chuyện nhỏ. Sau khi tập thơ Những Bài Tình Ðầu ra đời, nhà văn Tam Ích, một nhà văn đứng đắn và nổi tiếng thời đó viết một bài phê bình khen thơ Nguyễn Ðức Sơn hết lời. Nguyễn Ðức Sơn viết một bức thư ngắn nhờ tôi đem về Sài Gòn trao tận tay nhà văn Tam Ích. Nội dung lá thư không phải là lời cám ơn mà vỏn vẹn một dòng chữ như sau: “Bởi vì ông là nhà văn đứng đắn nên tôi không biết chửi ông như thế nào". Nhà văn Tam Ích nhận thư không giận lại viết thêm một bài ca ngợi Nguyễn Ðức Sơn là thiên tài mặc dầu không nói ra nhưng tôi biết Nguyễn Ðức Sơn sướng trong bụng lắm. Sướng không phải được khen mà vì có cơ hội để chửi người khác…”.
Và chuyện kể về mối tình của chàng thi sĩ dị thường kỳ quặc:
“Cuộc tình của Nguyễn Ðức Sơn và cô học trò Nguyễn Thị Phượng chín mùi khi nào thì quả tình tôi không hay biết. Một hôm vào khoảng giữa năm 1967-1968 gì đó tôi không nhớ đích xác Nguyễn Ðức Sơn nhờ tôi lên báo với thầy Thanh Tuệ in gấp tập thơ Ðêm Nguyệt Ðộng để kịp ngày đám cưới. Và khoảng mười ngày sau đám cưới Nguyễn Ðức Sơn - Nguyễn Thị Phượng được tổ chức tại chùa Tây Tạng Thủ Dầu Một Bình Dương.
Từ sáng sớm một chiếc xe con 4 chỗ ngồi đỗ trước nhà Nguyễn Ðức Sơn, Sơn trong bộ com-lê màu sẫm sang trọng đầu húi cua đã chờ sẵn đón những người trên xe bước xuống đó là Ðại Ðức Thích Thanh Tuệ, chủ nhà xuất bản An Tiêm, giáo sư nhà văn Bửu Ý và Ðại Ðức Thích Nguyên Tánh tức nhà thơ Phạm Công Thiện, Khoa trưởng Văn Khoa Ðại Học Vạn Hạnh. Khi biết tập thơ Ðêm Nguyệt Ðộng không in kịp Nguyễn Ðức Sơn chào đón đoàn nhà trai một câu chửi “Ð.m. Thầy, thầy có biết ngày hôm nay là ngày trọng đại của tôi không?”. Thầy Thanh Tuệ cười trừ còn mọi người thì đã biết Nguyễn Ðức Sơn là ai rồi.
Ðám cưới cử hành tại đại điện chùa Tây Tạng. Thượng tọa Thích Trí Bổn trụ trì chùa, cậu ruột của cô dâu Nguyễn Thị Phượng đại diện nhà gái vừa là chủ hôn (Phượng mồ côi cha mẹ về ở với cậu từ nhỏ). Ðại Ðức Thích Thanh Tuệ đại diện nhà trai, Ðại Ðức Thích Nguyên Tánh (tức nhà thơ Phạm Công Thiện) và nhà văn Bửu Ý phụ rể. Trong khi niệm hương lễ Phật, Thượng tọa Thích Trí Bổn và Ðại đức Thích Thanh Tuệ quì phía trước, Sơn và Phượng quì phía sau. Sơn dùng miệng mum hết chân nhang khi cắm nhang vào lư ba cây nhang của Sơn lùn tịt không giống ai. Khi qua làm lễ cáo tổ tiên Sơn láy mắt với tôi, tôi nghĩ Sơn bày trò gì đây nhưng không nghĩ ra. Bàn dọn cỗ là loại bàn tròn bằng gỗ mặt bàn rời đặt trên cái giá bốn chân hình chữ X, Sơn và Phượng quì trước bàn cáo tổ tiên lạy bốn lạy. Sơn lạy thêm một lạy trồi người tới trước khi đứng dậy đầu dội vào cạnh bàn cỗ bàn bị lật đổ không còn một món. Những người dự lễ cưới không ai không cười trừ Bửu Ý.
Một tuần lễ sau đám cưới tôi từ Sài Gòn về Bình Dương thăm vợ chồng Nguyễn Ðức Sơn vừa bước vào nhà tôi thấy Sơn cầm một con dao dí Phượng vào sát vách. Tôi kêu lên. Sơn làm gì vậy? Sơn vứt dao choàng vai tôi bước ra ngoài: “Moa muốn đo sự sợ hãi của Phượng như thế nào!”…”.
Trong bài viết của Thái Ngọc San, một nhà văn Việt Công nằm vùng trước năm 1975 khi viết về đời sống gia đình của Nguyễn Ðức Sơn trong truyện ngắn “Bầy Thú Hoang Dã” đã phác họa những người trong gia đình không khác lắm so với những thú rừng hoang dã. Gia đình đông con, vợ thì yếu dại làm sao mà không nghèo khổ cơ cực. Thái Ngọc San nhìn vào bề mặt đời sống ấy mô tả và có chút phê phán rằng Nguyễn Ðức Sơn có dã tâm của loài thú và tự mình tạo ra những bi kịch đời sống cho gia đình mình. Nhận xét ấy là của người không đi sâu được vào phần trong của cuộc sống ấy.
Nhưng có người viết nhìn bằng con mắt quan sát khác. Chân dung thi sĩ Nguyễn Ðức Sơn là một chân dung đặc dị, mà những chi tiết thường khi trái ngược nhau từ những quan sát nhận xét khác nhau. Nhà văn Nguyễn Ðạt một người có rất nhiều gần gũi với đời thường Nguyễn Ðức Sơn viết:
“Hiển nhiên qua cách nhìn nhận như Thái Ngọc San ở truyện ngắn này thì chỉ ghi lại cái bề mặt của cuộc sống Nguyễn Ðức Sơn và mặc nhiên với những trách cứ phê phán của người quan sát thiếu tâm tình.
Trong gần gũi Nguyễn Ðức Sơn nhiều ngày tháng chúng tôi hiểu rõ nhà thơ Nguyễn Ðức Sơn không hề có dã tâm của loài thú để tạo nên đời sống như Thái Ngọc San đã ghi nhận. Ðó là cuộc sống cực chẳng đã phải như vậy mà thôi muốn khác đi cũng không được. Nguyễn Ðức Sơn không biết làm gì khác để thay đổi cuộc sống như bầy thú hoang dã, ông lại càng không thể tính toán bon chen giành giựt với nhân thế. Trên trái đồi rộng bốn năm héc-ta ông không biết và cũng không ưa trồng loại cây nào cho có lợi nhuận ngoài cây thông mà ông yêu thích. Cũng vì Nguyễn Ðức Sơn chăm chút nuôi trồng thông từ mấy chục năm nay trái đồi mang tên Phương Bối ở thôn Ðại Lãi xã Lộc Châu bây giờ gần như là nơi duy nhất để ngàn thông còn tồn tại trên cao nguyên hoang sơ Bảo Lộc…
Sự thật mà chúng tôi biết Nguyễn Ðức Sơn đầy tình cảm yêu thương con người như mọi người thiện tâm khác. Lần Phượng bị bệnh thập tử nhất sinh phaỉ giải phẫu tại bệnh viện Chợ Rẫy, chúng tôi ngồi bên ông ngoài hành lang trước phòng giải phẫu. Ông rất căng thảng chờ đợi kết quả phẫu thuật. Chợt có tiếng cô y tá kêu lớn tên ông nước mắt ông tuột ra chảy dài trên khuôn mặt. Ông ngỡ cuộc phẫu thuật thất bại. Phượng đã chết! Hóa ra không phải cô y tá gọi ông để báo tin lành. Và Nguyễn Ðức Sơn cẳng nhảy lên như đứa trẻ vui mừng tột độ.
Lần một đứa con của Nguyễn Ðức Sơn bị bệnh nằm liệt giường chúng tôi cũng có mặt trên đồi Phương Bối. Ông cuống cuồng chạy xuống đồi hỏi người này người kia để chữa chạy kịp thời cho con. Có người bày cách cho người bệnh ăn thịt cóc sống. Ông hét vang như hóa điên vì gặp ngay người bán thịt cóc đi ngang qua. Mang thịt cóc về cho đứa con ăn ngay chợt ông nhớ cả gia đình vốn ăn chay trường ông vội thắp nén hương niệm Phật xin xá tội. Ðứa con vừa nuốt miếng thịt cóc lập tức nôn mửa thốc tháo. Ông lại cuống cuồng lại chạy xuống đồi kêu xe ôm, ôm con ngồi lên xe đưa vào bệnh viện. Ở bệnh viện lúc đứa con đã an toàn đã đi đứng trở lại bấy giờ mới để ý ông chỉ mặc quần cụt mà lại thủng rách cả đũng. Nhưng Nguyễn Ðức Sơn lúc đó vui rộ lên nói lắp bắp những câu hí lộng về cái quần thủng rách…”.
Ðời sống của một thi sĩ như Nguyễn Ðức Sơn đầy những biến cố của bi kịch. Là người ngông cuồng kiêu ngạo không coi ai ra gì và ăn nói lỗ mãng dung tục hay chửi thề? Là một người nổi loạn vô chính phủ dùng văn chương để quăng quật vào đời sống những hằn học chất chứa? Là một người không thừa nhận bất cứ một trật tự nào trên thế giới nhưng lại coi thi ca như một tôn giáo linh thiêng?
Tuệ Sĩ đã hỏi về khuôn dáng Nguyễn Ðức Sơn:
“Anh là ai? Là một nhà thơ hiện sinh, nổi loạn, quậy phá? Dưới ngòi bút phê bình anh không thể khác đi được: hiện sinh, nổi loạn, quậy phá, du côn. Tôi cũng không nghĩ khác hơn những ảnh tượng và những ấn tượng mà ngòi bút có thể vẽ, có thể miêu tả. Một gã du côn, một tên phạm thánh. Và còn nhiều từ khác nữa. Nhưng làm sao có thể biết được, một người không đến với ta từ con đường trước mặt, hay bằng tiếng gọi từ sau lưng, mà là một cái gì đó, ở đâu đó...”.
Với tôi, trong cảm quan của riêng mình, tôi thấy khi đọc thơ hoặc truyện ngắn của Nguyễn Ðức Sơn, tôi mường tượng thấy hình như thế giới của ông không phải là của mặt đất hiện hữu này. Ông sống như để muốn biểu lộ những suy nghĩ bị khép kín bị đóng băng. Thành ra ông như một con tê giác (tượng hình mà nhà văn Bửu Ý gán cho ông) cứ húc vào hư vô như một phản ứng tự nhiên của một người hình như không còn lý đến căn cước của mình mà vẫn phải sống, vẫn phải trôi theo dòng đời trong khi muốn ngược lại để bơi vào cái khu vực thâm u của chính mình nhưng cũng chưa hề hiểu rõ điều gì là huyễn ảo và điều gì là thực tế.
--------------------------
* nguồn: blog nguyenmienthao
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét