Việt Nam
có nhiều vùng đất được ghi nhận là “địa linh nhân kiệt”. Một trong những vùng được
công nhận và, nói tới nhiều là Quảng Nam.
Những danh nhân có tên trong lịch sử, xuất thân từ xứ
Quảng nhiều tới mức độ khó ai có thể nhớ hết. Tuy nhiên, những tên tuổi như
Hoàng Diệu, Tiểu La / Nguyễn Văn Thành, Ông Ích Khiêm, Trần Quý Cáp, Trần Cao
Vân, Phan Chu Trinh, Nguyễn Bá Trác, Phan Khôi… khi được nhắc tới, hầu như ít
ai không biết.
Xứ Quảng cũng là nơi duy nhất, được vua Thành Thái sắc
phong “Ngũ Phụng Tề Phi”. Theo ghi nhận của nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Q.
Thắng thì, “Khoa Mậu Tuất 1898 tỉnh Quảng Nam có 5 thí sinh trúng kỳ thi Hội và
thi Đình nên được vua Thành Thái (1879-1854) ban tấm biển ghi 4 chữ “Ngũ Phụng
Tề Phi” (năm con phụng cùng bay) nhằm chúc, tặng cho các sĩ tử nói chung và học
trò đất Quảng thuở ấy học giỏi”. (1)
Nhiều người nói với tôi rằng, đa số nam giới xứ Quảng
chỉ có một trong hai chọn lựa: Làm cách mạng hoặc làm văn nghệ.
Tôi không rõ lắm xác xuất của nhận định vừa kể. Nhưng,
hiển nhiên, rất nhiều bằng hữu trong văn giới của tôi, xuất thân từ đất Quảng. Nhiều
người nổi tiếng rất sớm. Cũng có những người khi bước qua tuổi trưởng thành,
hoặc đã nửa đời người mới chính thức tìm vào sinh hoạt văn học, nghệ thuật. Tuy
muộn màng, nhưng trong số này, cũng không thiếu người nổi tiếng.
Một trong những bằng hữu Quảng Nam của tôi, bước chân vào sân chơi văn chương miền
Nam
20 năm, rất sớm là nhà thơ Luân Hoán (2).
Ngay từ năm 1964, 23 tuổi, nhà thơ Luân Hoán / Lê Ngọc
Châu đã có tác phẩm xuất bản. Thi phẩm “Về trời”.
Ở phần “Lời Bạt”, trước khi khép lại thi phẩm “Về
trời” của Luân Hoán, nhà văn Dương Kiền viết:
“Gia tài quê hương của chúng ta đã bị xâu xé gần hết, chúng
ta chỉ còn lại một di sản quí báu: tình tự con người. Tình tự con người bất
chấp mọi tương tranh, chia cắt, vùi dập, thủ đoạn... nó sáng ngời trong đêm tối
kéo dài từ hai chục năm nay, nó là ngọn lửa sưởi ấm những tâm hồn còn biết
hướng về nhau, những con tim còn biết xôn xao mơ ước. Nó làm thành một thế giới
trên những thế giới của tham vọng và hận thù.
Anh Luân Hoán, chính thơ anh đã đưa tôi vào thế giới ấy…”(3).
Nhưng theo ghi nhận của tôi, khi miền Nam cuối thập
niên (1960) bị đẩy sâu vào giai đoạn chiến tranh khốc liệt; dẫn tới việc nhà thơ
của chúng ta đã để lại nơi chiến địa bàn chân trái của mình, Luân Hoán viết:
“nằm im mà thấy bềnh bồng
nghe như mây đảo vòng vòng trong tim
tỉnh ra sửng sốt giật mình
một đoạn chân đã tuyệt tình bỏ đi”
“… núi Vàng, cõi đặt mộ bia
cho bàn chân trái nằm kia, mơ hồ”
.
“cái chân một thuở đánh rơi
“hình như đang nhớ đến tôi, khóc thầm…”(4)
Đó là năm 1968. Nơi “… bàn chân trái nằm kia, mơ hồ”
của Luân Hoán / Lê Ngọc Châu là “Núi Vàng”, thuộc quận Đức Phổ, Quảng Ngãi.
Nhưng chính sự “một đoạn chân đã tuyệt tình bỏ đi” mà,
từ đó, giới thưởng ngoạn được đọc thi phẩm “Nén hương cho bàn chân trái” của họ
Lê.
Theo tôi, cũng chính từ thi phẩm vừa kể, Luân Hoán được
người đọc và văn giới chú ý tới thơ ông nhiều hơn nữa.
Trước đấy, dự cảm mang tính tiên tri, dường báo trước
cho Luân Hoán biết, bi kịch chiến trường, rồi đây, sẽ xẩy đến cho ông, sau khi
chúng đã tìm đến những người bạn của ông:
“ từ đồn Đức Hải ta về phép
bạn thế chân ta kích xóm đêm
đâu có chỗ nào vừa mắc võng
nằm hoài cũng mỏi cái lênh đênh”
“bạn mới ngả lưng lim dim mộng
cạc-bin, bảy-chín, lẫn AK
trời xanh thăm thẳm hồn nhiên quá
phận số dành riêng mỗi chúng ta?”
.
“ta trở lại đồn qua xóm cũ
rút colt bắn lẫy cái lu sành
nước tràn, lu vỡ, trời ta khóc
bóng bạn chập chờn đóm lệ xanh”
.
“Nam
ơi, Đức Phổ trưa nay vắng
biển lặng ngồi không, xót phận mày
ngày mai nhổ trại lùng Đức Phụng
đến lượt ta, hay đứa nào đây?”(5)
Mặc dù Luân Hoán / Lê Ngọc Châu mang được vào trong
thơ của mình, tên của nhiều loại súng hơn bất cứ một tác giả nào khác; nhưng
tôi vẫn không thấy tính hận thù, sắt máu trong thơ ông. Khi nhớ tới bạn đã hy
sinh nơi trận địa thì mức độ “bi phẫn” cao nhất của họ Lê, cũng chỉ là rút cây
“colt” bắn… vỡ “cái lu sành” – Và sau đấy, ông bật khóc!
Cũng vậy, khi nhận được giấy gọi động viên, ông bình
thản, như thể sự kiện ấy, không hề là một điều gì to lớn hay nghiêm trọng:
“bỏ lệnh gọi trong túi quần
tôi đi qua từng đường phố
không biết phải làm gì
tôi trở về rửa mặt
quyết định ngủ một ngày
thản nhiên không mơ mộng…”(6)
tôi đi qua từng đường phố
không biết phải làm gì
tôi trở về rửa mặt
quyết định ngủ một ngày
thản nhiên không mơ mộng…”(6)
Phải chăng thanh niên miền Nam, trong cuộc chiến miền Nam
20, ngay từ tấm bé, đã không bị dạy dỗ, nhồi nhét tinh thần căm thù?
Phải chăng, vì thế mà, đặc tính thơ, văn miền Nam, theo ghi
nhận của giáo sư Neil. L Jamieson, vốn đầy tính nhân bản?(7).
--------------
Chú thích:
(1)Theo Wikipedia, Bách khoa toàn thư mở “Khoa cử và
giáo dục Việt Nam",
NXB Văn Hóa Thông Tin, 1993. Vẫn theo Wikipedia thì “Một lập luận khác của ông
Trương Duy Hy là danh hiệu ‘Ngũ phụng tề phi’ do Tổng đốc Nam-Ngãi Đào Tấn và
Ðốc học Quảng Nam Trần Ðình Phong lấy từ tích xưa đặt cho 5 vị đại khoa nói
trên, đồng thời tặng cho bức trướng có 4 chữ Ngũ phụng tề phi, có thêm hình 5
con chim phụng đặt tại dinh Tổng đốc ở Điện Bàn. Và theo Giáo sư Sử học Đặng
Tiến thì ‘… chuyện này không có sử sách nào ghi lại mà chỉ lưu truyền ở dân
gian. Nhất là những đoàn hát bội ở Trung bộ lấy đó làm vẻ vang truyền tụng nhằm
vinh danh xứ Quảng. Tuy nhiên, việc 5 đại khoa (gồm 3 Tiến sĩ và 2 Phó Bảng
người Quảng Nam đỗ đại khoa trên 17 vị toàn quốc cũng được cho là hy hữu xưa
nay hiếm tại Việt Nam”.
(2) Nhà thơ Luân Hoán tên thật là Lê Ngọc Châu, sinh
ngày 10-01-1941 tại Hội An, Quảng Nam. Gia đình ông di chuyển ra Ðà
Nẵng từ 1953. Là sĩ quan QLVNCH, ông bị mất bàn chân trái tại mặt trận Ðức Phổ,
Quảng Ngãi, 1968. Kể từ năm 1985, cùng với gia đình, ông định cư tại Montreal Canada.
(3), (4), (5), (6): Nguồn đd.
(7) Đọc thêm “Understanding Vietnam”, bản paperback,
in lần thứ nhất năm 1995, bởi liên đại học Berkeley,
Los Angeles & London.
đóng quân đêm
trung
đội thiếu quân số
chờ nắng tắt hồi lâu
thong thả một hàng dọc
lưng, ngực gần chạm nhau
điểm nằm đêm khoanh sẵn
đánh lừa đi vòng vo
vừa ngủ vừa kích giặc
một trò chơi giả đò
bóng tối mở dạ hội
côn trùng chung vòng đai
ếch nhái thảnh thơi hát
một cõi trời thiên thai
nằm lơ mơ nghe ngóng
bóng tử thần trong đêm
sống chết dẫu có mạng
đầu đạn biết chọn tên?
cổ không đeo Thánh Giá
không tượng Quán Thế Âm
tấm thẻ bài lành lạnh
nằm sát da âm thầm
giữa đồng không mông quạnh
ngửa mặt thấy sao băng
nhớ nhiều giai đoạn sống
lấp ló lời trối trăn
địch quân chưa xuất hiện
qua trọn thêm một ngày
mừng cho ta, cho địch
còn được rửa mặt mày
sớm mai, sớm mai đến
đời còn mấy sớm mai?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét