Và nhà thơ Hoàng Vũ Thuật cũng khắc họa chân dung của mình
một cách đúng nhất:
như người điên đi
trong dầm dã
hai mươi năm sau
không biết nơi nào để
dừng
(Mưa trên mười ngón tay dài)
Cần gì đến hai mươi năm, ngay bây giờ kiểu viết vô lối, tắc tỵ, bệnh hoạn của
Hoàng Vũ Thuật đã không chốn nương thân, bị loại bỏ ra khỏi tâm hồn Việt như
bao loại Vô lối khác!...
VÔ LỐI, TẮC TỴ HOÀNG VŨ THUẬT
Trong cuộc sống, nhà thơ Hoàng Vũ Thuật sống chân tình chung
thủy vợ con, cưu mang bạn bè, người thân; nhưng trong sáng tác thì Hoàng Vũ
Thuật rất làm hàng giả. Giả trong cách lập tứ, chọn từ, đặt câu, thi tứ, mô
phỏng. Cái giả nó đeo theo nhà thơ từ khi chập chững vào nghề cho đến hôm nay
đã thất thập cổ lai hy, đầu suy tứ chi!
Nghĩ cho cùng không phải lỗi của Hoàng Vũ Thuật mà nói như
từ thông dụng bây giờ là lỗi cả một hệ thống. Cả thế hệ cứng như một thỏi sắt
(Lưu Quang Vũ). Nhiều lớp lớp làm nhà ca học, hót học, hát học, cười học… Trùng
trùng điệp điệp cổ động viên tự giác và không tự giác.
Đến nỗi như nhà thơ Phạm Tiến Duật nổi tiếng nhất trong thơ
chống Mỹ cũng làm “nhà cười học” khi viết bài thơ tình Cái chao đèn duyên tình
thế mà phải thêm hai câu kết rất dở hơi mới được in và mới được phổ biến:
CÁI CHAO ĐÈN
Con trai đội nón bao
giờ
Vì mưa nên phải đi nhờ
nón em
Bấy lâu mũ sắt đội
quen
Buồn cười cái nón tòn
ten trên đầu.
Khoảng râm là ánh sáng
màu
Của tình yêu đội trên
đầu đó em.
Hông hồng khuôn mặt
xinh quen,
Nón bài thơ cái chao
đèn của anh!
Khi đưa in, nhà biên tập không đồng ý vì cả nước đang đánh
giặc mà nhà thơ lại làm thơ tình thuần túy. Bất đắc dĩ, Phạm Tiến Duật phải
viết thêm hai câu kết không ăn nhập gì để được in:
Mũ va vào mũ lanh canh
Đường xa nhớ nón che
anh buổi nào!
Rồi tiếp đến nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ suốt thời chống Mỹ nằm
hầm ở thôn Phú Vinh (Trụ sở Hội Văn nghệ Quảng Bình đóng) cũng phịa, tưởng
tượng ra mình là bộ đội hoặc thanh niên xung phong hành quân:
Đơn vị tôi hành quân
qua con đường mòn
Gặp hố bom nhắc chuyện
người con gái
(Khoảng trời và hố bom)
Và dùng nhiều câu đại ngôn, hô khẩu hiệu sáo mòn để cổ động:
Em đã lấy tình yêu Tổ
quốc của mình thắp lên ngọn lửa.
(Bài đã dẫn)
Nhà văn Dương Thu Hương cũng vậy. Tưởng tượng mình là chiến
sỹ lái xe đi trên đường gặp nhiều hoa Trâm Lê (hoa phịa, anh em gọi là hoa Đâm
Lê) hứa sẽ làm tròn nhiệm vụ ngoài tiền tuyến cho hậu phương yên tâm sản xuất…
Thế hệ Hoàng Vũ Thuật là thế hệ chống Mỹ. Cả nước gồng lên
đánh một đế quốc giàu mạnh nhất thế gới nên văn chương cũng gồng lên nhiều lần
để phục vụ cho mục đích đánh giặc của nhà cầm quyền:
Ta lại viết bài thơ
báng
súng
Con đứng lên viết tiếp
thay
Người đứng dậy viết
tiếp người ngã xuống
Người hôm nay viết
tiếp người hôm qua.
(Hoàng Trung Thông)
Tố Hữu nhà thơ của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng viết:
Dẫu một cây chông trừ
giặc Mỹ
Hơn nghìn trang giấy
luận văn chương!
Cho nên cả nước từ văn chương, thơ ca, nhạc, họa đều phải
vót chông trước khi vót văn.
Hồi ấy in ấn rất khó khăn từ trung ương đến địa phương. Văn
thơ không nói về bom đạn, hỏa tuyến, đánh giặc, bắn máy bay, bộ đội, thanh niên
xung phong, ta thắng địch thua… thì rất khó in.
Hội văn nghệ Quảng Bình có tờ Văn nghệ Quảng Bình, anh em
phải xếp hàng nhiều năm mới có bài đăng.
Một lần Hoàng Vũ Thuật đưa bài “Quả ổi trong vườn chín sớm”
đến Ban biên tập để duyệt.
Nội dung là tả trái ổi trong vườn bị viên bom bi găm vào nên
nó chín sớm. Ban biên tập mới phê rằng: “Sự việc có thật nhưng người viết đã
chọn không điển hình nên nó thành giả. Bom đạn Mỹ ném bom, bắn súng hàng ngày
để bao nhiêu người chết, súc vật chết không viết, mà viết quả ổi bị bom bi chín
sớm vừa sến, vừa nhẹ tênh, gượng gạo thế nào! Có sự việc không có thật nhưng
nhà thơ điển hình hóa nó lên thì đọc như là thật”.
Từ đó Hoàng Vũ Thuật đi tìm cái điển hình hóa không thật để
làm cho nó thật. Nhưng tai hại thay, sau khi văn chương cổ động tuyên truyền
qua đi thì những cái giả nó lại lai hoàn giả, không thể chấp nhận được:
Qua ải Bắc, đèo Nam
Qua Trường Sơn nắng
mưa dằng dặc
Anh thành người con
trai suốt đời đi đánh giặc
(Cây Nhạc ngựa)
Hoàng Vũ Thuật thì không một ngày mặc áo lính, không biết
khẩu AK lắp đạn như thế nào, một băng đạn có mấy viên và bắn liên thanh hay bắn
ba phát một thì địch mới sợ nhưng Hoàng Vũ Thuật hay thay lời người ra trận làm
thơ cổ động chiến đấu, hay đánh giặc trên giường (!). Điều này cũng không vấn
đề gì, xưa nay mọi người vẫn làm, miễn là hay xúc động là được. Đằng này bài
Cây nhạc ngựa vừa giả vừa dở, vừa không có một chút gì gọi là thi pháp nên nó
rất phản cảm. Mặc dầu bài này được giải thưởng thơ báo Văn nghệ đâu năm 1986.
Rồi tập Tháp nghiêng cũng được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. Giải
thưởng dù giải địa phương, dù giải trung ương đều đáng trân trọng. Nhưng lấy
giải thưởng mà đo chất lượng một đời thi ca là một việc hoàn toàn sai lầm. Vì
giải thưởng chỉ phục vụ cho một giai đoạn, một hoàn cảnh nhất định, một chính
thể cụ thể. Bài Cây nhạc ngựa vừa giả dối, vừa kém thi pháp, vừa gần như mô
phỏng nhiều câu của Phạm Ngọc Cảnh trong bài thơ Lý ngựa ô ở hai vùng đất:
Mai xa rồi, em nhớ anh
không?
Trăng lại tròn vầng
trăng biên cương
Ngựa tung bờm trắng
thảo nguyên gió.
…
Cỏ vô tận cho lòng anh
rong ruổi
(Cây nhạc ngựa – Hoàng Vũ Thuật)
Ngựa tung bờm bay qua
biển lúa
Ngựa ghìm cương nơi
sông xòe chín cửa
…
Gặp câu hát bền lòng
rong ruổi mãi
(Lý ngựa ô ở hai vùng đất - Phạm Ngọc Cảnh)
Cha ông ta đã từng viết về người lính suốt đời đánh giặc một
cách nghệ thuật tài tình:
Ban Siêu quy thời mấn
dĩ hoa
[Chàng Siêu mái
tóc điểm sương mới về]
(Chinh phụ ngâm – Đặng Trần Côn – Đoàn Thị Điểm)
Là biết chàng Siêu suốt đời đánh giặc rồi, cần gì mà nói:
Anh thành người con trai suốt đời đánh giặc!
Viết thế, vừa không thơ, vừa không thật, vừa ảnh hưởng thơ
người khác:
Cái giả của Hoàng Vũ Thuật đi vào cả đề tài tình yêu:
… Rồi em làm quan tòa
Đưa anh ra xử án
Và có thể cao hơn
Đem pháp trường xử
bắn.
Mặc tất anh chẳng cần
Sợ gì giấy xích sắt
Nếu đạn bắn vào anh
Sẽ làm em chết mất!...
(Không đề)
Lúc đầu Hoàng Vũ Thuật viết câu kết Nếu đạn bắn vào anh/ Sẽ
làm em chết ngất.
Anh em góp ý là chết ngất là chết giả. Hoàng Vũ Thuật sửa
lại chết mất cũng là chết giả nốt. Mình như thế nào, là vua chăng, là thượng đế
chăng mà người tình có thế chết(!). Vua và thượng đế đầy quyền lực đấy nhưng
người tình chưa chắc đã thèm chết. Ngay thần Juipite bá chủ Olempơ mà đã có
người tình nào chết đâu!
Hoàng Vũ Thuật rất chủ quan, rất không thực chút nào. Thật
ra nhà thơ chẳng hiểu gì quy luật tâm lý. Chín con chưa thật mặt chồng, huống
gì mới tình tang đôi lứa ngoài đường, người con trai trộm yêu người con gái.
Việc này vô cùng giả dối.
Giang Nam
thật tình hơn:
Hôm nay nhận được tin
em
Dù không tin đó là sự
thật
Giặc giết em rồi quăng
mất xác
Chỉ vì em là du kích
em ơi.
Đau xé lòng anh chết
nửa con ngươi!
(Quê hương – Giang Nam)
Chết nửa con người của Giang Nam là chủ thể, nó thực nên thuyết
phục người đọc, đọc xúc động đến hôm nay.
Hoàng Vũ Thuật viết đã giả lại quá cũ như hai nghìn năm
trước:
Giữa bãi cát vàng em
là cây
Bóng em đổ xuống hai vai
gầy
Anh ngồi trưa nắng như
thiêu đốt
Mỗi chiếc lá xanh một
bàn tay…
(Em là)
Minh nguyệt cao cao
khắc lậu trường
Trân châu liêm bạc yểm
lan đường
Hoành thùy bảo ác đồng
tâm kết
Bán phất quỳnh diên tô
hợp hương…
(Đảo thiên y – Lý Bạch)
Trăng sáng cao vời giờ
điểm đây.
Nhà lan châu ngọc ánh
vơi đầy.
Tấm lòng cùng kết bên
màn liễu,
Phảng phất chiếu quỳnh
hương ngất ngây!...
(Đỗ Hoàng dịch)
Gần bảy mươi tuổi, nhà thơ Hoàng Vũ Thuật tự lột xác mình,
cố gắng đổi mới, phá bỏ cách viết cũ và giả của mình gần 60 năm qua. Nếu thế
thì đáng quý biết bao, dù còn sống một giây cũng phải đổi mới, nhưng tiếc thay
Hoàng Vũ Thuật chẳng có đổi mới gì mà chỉ sa đà vào tắc tỵ, bí hiểm, cầu kỳ rắc
rối, tù mù, hủ nút, không còn một chút rung động thi ca. Chỉ có rặt những kiểu
nói tắc tỵ, bí hiểm, đánh đố mình, đánh đố người đọc vì một kiến văn thiển cận,
kiến thức hạn hẹp, rất nhiều chỗ hỏng trong học vấn, ít từng trải, sai cả quy
luật tâm lý, quy luật tự nhiên, xã hội…
Được các bác sỹ đỡ đẻ hải ngoại quanh năm ngồi trong phòng
sản phụ đỡ con Mỹ đen, các học giả, học thật, tiến sỹ bò tung hô… nên Hoàng Vũ
Thuật càng dấn sâu vào quái thai, kỳ quặc, lởm khà lởm khởm, tắc tỵ…
Đặt tựa đề một cách tù mù, đánh đố:
Mãi viên trà, K, Ly, Hoàng An, Lá, Đo, Cõi, Ngược, Màu, Kiến…
Cầu kỳ, rắc rối:
Mưa trên mười ngón tay dài, Trưa lệch phai…
Những câu vô lối như bị tâm thần, nhạt nhẽo vô vị, không ai
hiểu mô tê răng rứa, viết cho bạn mà như viết cho kẻ không ăn ngũ cốc, cho kẻ ở
ngoài hành tinh hoặc quỷ dạ xoa dưới Long cung:
ngày mẹ đưa chúng mình
xuống sông quẫy đạp
tình yêu dội lên hai
bờ vai
đẫm vào da thịt
tia chớp sáng của ngọn
sao khuya
chúng mình đứng như
trời trồng khi tình yêu tới
những câu thơ vọt máu
phát cuồng quất vào bức tranh
đớn đau khát cháy
(Viết cho bạn)
tù mù, vô nghĩa:
giờ thì anh trồng thêm
gốc cây
thuộc loài bạch dương
chờ đông sang phủ tuyết
nào có gì ổn định
rồi con sóng tiếp xô
đổ anh
lúc anh là cát
những con sóng siêu
hình lau sạch gương mặt cũ
như chén rượu đêm ấy
chặng cuối
(Hoàng An)
Viết sai cả quy luật tâm lý, quy luật xã hội, tình cảm:
nguời di gan không
buồn
chỉ biết hát
nhiệt cuồng và mê loạn
nguời di gan không
đau
chỉ biết múa
vũ điệu ngã nghiêng
phố xá
rạch ríu làm xiếc diễn
tuồng
nguời di gan không
khóc
chỉ biết cười
chào mời đổi chác
giơ tay xin giơ tay
vẫy mặt trời
(Người Di gan)
Đáng khóc mà ta vẫn
hát tràn
(Hồ Chí Minh)
Người Di gan phải như thế chứ mà thật như thế. Sao người Di
gan lại không khóc, chỉ biết cười. Hoàn toàn khiên cưỡng!
Bí hiểm không ra bí hiểm, mù mịt, tâm thần không ra tâm
thần, ngớ ngẩn, rất thiểu năng trí tuệ:
Một nghìn ba trăm năm
mươi mét cao ly hồng nở
đôi mắt bồ câu
vô biên im lặng
cơn mưa đồng phạm
con chó thảo hiền
không biết sủa dẫn tôi đi cùng
bài thơ tình ăn theo
mưa
ly thơm vào trưa
xấu hổ tôi cúi mặt
(Ly)
Viết về một quán Mãi viên trà chỉ có bà mẹ và cô con gái mà
Hoàng Vũ Thuật chế biến ra ba người là một thiếu nữ, một cô gái, một bà mẹ. Ai
cũng biết đã dùng thiếu nữ thì thôi dùng cô gái, mà dùng cô gái thì thôi dùng
thiếu nữ. Không hiểu ra làm sao:
nấp dưới cánh lá bồ đề
màu phật
một cô bé một thiếu nữ
một người mẹ
cô bé vắt tuổi thơ qua
đồi sim
thiếu nữ mười sáu lần
trăng đỏ
người mẹ đội nước lên
chùa
(Mãi viên trà)
Viết rất điên rồ:
xóa đi rồi vẽ lại
nghẹt thở
thêm một nét gầy thêm một
nét
chết lặng dưới chân
cầu thang
nàng khóc
(Họa sỹ)
Mượn cái gọi là hậu hiện đại, cách tân, siêu thực, xuống
dòng một cách vô lối, bệnh hoạn tùy tiện:
thỏi hình hài bẹp dí
long lóc
thở
ẩn dụ giữa rừng khô
héo
bày bán cùng
hoa
(trong tập Màu)
tìm nơi di trú
bằng chìa khóa mẹ
trao
(tiếng chim)
Nhôm nhoam nhiều câu viết lớm khởm, tối nghĩa, kiểu cách lên
gân giả vờ, điệu đàng, sống sượng, triết lý vặt:
chẳng thể bắt níu
những sợi tóc vào mùa
không người tuốt chải
gặt hái
anh cắt dán cánh đồng
lên thân thể em
điều phối cơn mưa
vá víu vết thương cuối
hạ.
(Hoàng an)
rừng mọc dưới bờ mi
(Viết dưới tượng Exenhin)
đếm tiếng trái tim khuya
(Điều ấy có ý nghĩa gì)
huyền ảo uốn cong hiện
thực
nhịp cầu tượng trưng
gãy vụn
ẩn dụ giữa rừng khô
héo…
(Ý nghĩ vụt hiện)
Kể mãi không bào giờ hết.
Rồi Hoàng Vũ Thuật sa đà mượn hệ đếm, con số, thuật ngữ toán
học nhét vào các bài vô lối phá hỏng thơ ca:
nằm dưới kia
một ông vua một hoàng
hậu một người hầu
một thanh gươm một
tuấn mã một mê nón
một lệnh truyền một
trống giục một lời van
nằm dưới kia
một hộp sọ một ống
xương một đốt lóng tay
một trung thực một đớn
hèn một điên loạn
một ngọn lửa một đêm
tối một chiều tà
một vận hạn một thức
thời một nguyền rủa…
(Lăng tẩm)
Hoàng Vũ Thuật đã dùng đến 21 chữ một để diễn tả một sự việc
chỉ cần một con số một là đủ:
Dưới kia có một đế
vương
Tàn tro bụi bặm lóng
xương chẳng còn.
(Đỗ Hoàng phóng dịch)
Trong thơ cổ kim có dùng con số, nhưng dùng khéo thì làm cho
bài thơ hay lên rất nhiều:
MƯỜI THƯƠNG
Một thương bỏ tóc đuôi
gà
Hai thương ăn nói mặn
mà có duyên
Ba thương má lúm đồng
tiền
Bốn thương răng nhánh
hạt huyền kém thua
Năm thương cổ yếm đeo
bùa
Sáu thương nón thượng
quai tua dịu dàng
Bảy thương tính nết
đoan trang
Tám thương ăn nói lại
càng thêm xinh
Chín thương em ở một
mình
Mười thương con mắt có
tình với anh!
(Ca dao)
Một canh, hai canh lại
ba canh
Trằn trọc băn khoăn
giấc chẳng thành
Canh bốn, canh năm và
chợp mắt
Sao vààng năm cánh
mộng hồn quanh.
(Hồ Chí Minh)
Không chỉ nước ta mà nhiều nước, nhất là Trung Quốc nhiều
nhà thơ dùng con số để diễn ý, diễn tình. Từ con số khô khan biến hóa muôn vẻ
làm nên thi phẩm lung linh, bất hủ:
LÃO SƯ KHỐN
Nhất thân bình giả bố
Lưỡng tụ phấn bút khôi
Tam xan ngật bất bảo
Tứ quý thường sô mi
Ngũ canh tựu khởi sàng
Lục đườngyếm nhĩ ngật
Thất thiên nhất tinh
kỳ
Bát phương cuồng kỷ
hồi
Cửu thiên bất phát
hưởng
Thập gia giai đoạn
xuy.
(Khuyết danh)
ĐỜI GIÁO VIÊN XƯA
Một thân áo quần bố
Hai tay áo phấn đầy
Ba bữa ăn không đủ
Bốn mùa ủ mặt mày
Năm canh đã trở dậy
Sáu giờ mới ăn chay
Bảy ngày tròn tuần lễ
Tám phương biết gì đây
Chín ngày lương không
có
Mười nhà đói lắt lay!
(Đỗ Hoàng dịch)
TUYỆT CÚ
Lưỡng cá hoàng ly minh
thúy liều
Nhất hàng bạch lộ
thướng thanh thiên
Song hàm Tây Lĩnh
thiên thu tuyết
Môn bạc Đông Ngô vạn
lý thuyền
(Đỗ Phủ)
Hai cái oanh vàng kêu
liễu biếc
Một hàng cò trắng vút
trời xanh
Nghìn năm tuyết núi
sông in sắc
Muôn dặm thuyền Ngô
cửa rập rình.
(Dịch – Khuyết danh)
Bài trên có các con số: Hai, một, vạn, nghìn.
Trong những người làm Vô lối, Hoàng Vũ Thuật cũng là người
dùng một cách lạm phát từ ngữ nước ngoài nhất là âm Hán Việt ít Việt hóa như:
điều phối, thảo hiền, hiển lộ, mê lộ, tẩy trần, trùng phùng, mãi viên trà, di
trú, vô chủ, tấu khúc, miền hiển thủy, miền thiên hư, vô cư, vũ điệu, di hài,
thuần khiết, tạ từ, nguyên thủy, cuồng thảo, mãn nguyện, nguyện cầu, hoan lạc,
hoang phế, biến thể… hằng hà vô số. Đọc vô cùng khó chịu!
Tôi đã từng viết tặng nhà thơ Hoàng Vũ Thuật để nói lên cái
“việc làm tốt nghĩa vụ của người công dân thì người thi sỹ rất đau khổ” của anh
(ý của nhà thơ Nhê ka rê xốp – Nga):
Anh là nhà thơ Nhà
nước
Có việc làm ăn hẳn hoi
Thế mà đời thật cơ cực
Thơ anh nén khóc để
cười…
(Lang thang chiều Huế)
Và nhà thơ Hoàng Vũ Thuật cũng khắc họa chân dung của mình
một cách đúng nhất:
như người điên đi
trong dầm dã
hai mươi năm sau
không biết nơi nào để
dừng
(Mưa trên mười ngón tay dài)
Cần gì đến hai mươi năm, ngay bây giờ kiểu viết vô lối, tắc
tỵ, bệnh hoạn của Hoàng Vũ Thuật đã không chốn nương thân, bị loại bỏ ra khỏi tâm
hồn Việt như bao loại Vô lối khác!...