Thứ Bảy, 10 tháng 11, 2012

con vẹt thông thái - nam thi * truyện ngắn


 

1
Sau ba lần bảy lượt cù cưa hứa tới hẹn lui, cuối cùng tôi cũng đi thăm Thân, định bụng sẽ ở lại chơi vài ngày nhưng ngay buổi chiều hôm đó tôi bịa ra lý do để về nhà.
Hắn là bạn thân của tôi từ thời mới vào đại học hơn bốn mươi năm trước. Mà đâu có xa xăm gì, chúng tôi ở hai thành phố cách nhau chưa tới một trăm năm mươi cây số. Mấy năm trước khi còn làm việc cho một công ty du lịch ở Nha Trang, tôi thường xuyên đi qua thành phố Phan Thiết của hắn, có khi mỗi tuần một bận dừng chân để ăn trưa nếu khởi hành từ Sài Gòn vào tám giờ sáng. Hắn dặn tôi cứ phôn báo trước nửa giờ là hắn có mặt để đón tôi. Vậy mà tôi chưa bao giờ gọi hắn, chỉ vì nghe nói hắn làm quan to mà tôi thì nuôi sẵn thành kiến với những bạn bè cũ gặp thời làm ông nầy bà kia.
Tôi đã một lần dại vì tin vào tình bạn nên tôi cất công lên tận Pleiku để can gián hai thằng bạn cũ đấu đá nhau để giành một chức giám đốc. Hai thằng đó chơi thân với tôi thời trung học ở Quy Nhơn, thân đến nỗi bạn bè gọi chúng tối là bộ ba tướng-sỹ-tượng. Số phận đưa đẩy chúng làm việc cùng một cơ quan, lý lịch đều “đỏ”, nhưng lại thuộc hai “phe” khác nhau, mà phe nào cũng muốn “gà” của mình nắm giám đốc của cơ quan béo bở đó. Ghế thì ít nhưng đít thì nhiều, một chức giám đốc nhưng có hai thằng tranh, mâu thuẫn chồng chất, đánh nhau một mất một còn. Tôi nghĩ tôi có thể hòa giải chúng nhân danh tình bạn lâu năm.  Thế là  tôi bỏ tiền túi lên Pleiku, ngủ khách sạn, rồi liên lạc mời cả hai thằng đi nhậu mà không cho đứa nầy biết tôi cũng mời đứa kia. Khi ba đứa đã ngà ngà, tôi nêu chuyện chúng “hục hặc” với nhau và khuyên “chỗ anh em cũ nên cộng tác với nhau”. Một trong hai thằng cảm ơn thiện chí của tôi rồi ra xe biến mất không thèm bắt tay. Tối đó nó điện mắn vốn, bảo rằng thằng kia đã “chơi” hắn cạn tàu ráo máng nay lại nhờ tôi làm trung gian hòa giải.
Từ dạo ấy, sợ rằng không có cái ngu nào giống cái ngu nào, nên tôi tránh bạn bè làm quan, ngay cả trong đám tiệc tôi cũng tránh không ngồi chung bàn với họ. Lần nầy tôi chịu đi thăm Thân vì hắn đã nghỉ hưu mấy năm rồi. Hơn nữa, trong nhóm bạn xưa của tôi nay chỉ còn sót lại tôi và Thân, cả hai đều đã “có tuổi” –  phải tranh thủ gặp nhau một lần, biết đâu lại có đứa ra đi trước.
Thuở đó chúng tôi có năm đứa thuê nhà trọ ở đường Nguyễn Cư Trinh Sài Gòn. Thằng Hà thi rớt, phải đi sỹ quan trừ bị Thủ Đức, ra trường hơn hai năm thì tử trận ở Quảng Ngãi. Thằng Quý đi sỹ quan võ bị Đà Lạt, cuối cuộc chiến mang lon đại úy ở sư đoàn 22, đi học tập mút mùa, rồi vượt biên và chết mất xác ngoài biển, bỏ lại vợ và ba con. Thằng Hữu di tản theo tàu Thương Tín 2, không vợ con, chết già ở Mỹ. Tôi vốn là nhân viên ngân hàng Việt Nam Thương Tín, chưa từng cầm tới khẩu M16 nên được “lưu dung”.
Riêng Thân thì khác. Hắn học Đại học Sư phạm Sài Gòn, ra trường đi dạy ở Bình Tuy hơn năm thì giải phóng. Khoảng đầu tháng 3-1975, hắn bỏ nhiệm sở chạy vào Sài Gòn mặc dầu chiến trận còn ở tận các tỉnh phía Bắc. Tôi rủ nó về ở chỗ tôi vì căn hộ hai phòng ngủ của tôi ở chung cư Lan Đình gần cầu Công Lý khá rộng mà tôi thì vẫn độc thân vui tính, lương giám đốc chi nhánh ngân hàng dư ăn dư để. Với lương “giáo sư” – thời đó giáo viên Trung học trở lên đều gọi như thế – hắn ký cóp bộn tiền gửi ngân hàng để dành cưới vợ, nay thời cuộc đang thay đổi nhanh chóng, “không biết sống nay chết mai thế nào, xài cho hết…” – hắn bảo thế. Hằng ngày hai thằng bạn độc thân ăn cơm nhà hàng lúc Victoria, lúc Thanh Thế, chiều chiều ngồi nhấm nháp café Kim Sơn, Thanh Bạch, Brodard mặc sức xem gái Sài Gòn “bát phố” để “rửa mắt”, chán lại vào Rex xem những bộ phim mới nhất của Hollywood, tối tối đi nhảy đầm ở Maxim’s.
Những ngày Sài Gòn sắp sụp đổ, hắn đi từ sáng đến tối, mặt mày hớt hải như gà bị chó đuổi. Tôi bảo nó “người ta sao mình vậy việc gì phải rối lên thế…”, nhưng không thể giúp hắn bớt sợ hãi. Cả hai chúng tôi đều không có ý định di tản vì toàn bộ gia đình đều “kẹt” ở ngoài Miền Trung, mặc dầu nếu muốn đi tôi đã có thể rủ hắn cùng xuống tàu của ngân hàng VNTT như tôi đã giúp Hữu.
Khi tình hình tạm ổn, tôi hay tin ba má tôi dẫn mấy đứa em hoảng loạn chạy vào tới Cam Ranh rồi quay trở lại quê, may mắn không mất người mất của. Còn hắn về Phan Thiết trình diện rồi ở biệt ngoài đó. Thật ra, qua bạn bè tôi cũng biết hắn thôi nghề dạy học chuyển sang nghề chính trị nhờ lý lịch “đỏ”. Hắn không liên lạc với tôi, nên tôi cũng chẳng muốn tìm hắn, vì ở đời “giàu đổi bạn, sang đổi vợ” là lẽ thường. Cho đến khi hắn nghỉ hưu, hắn mới mò đâu ra số di động của tôi để bắt liên lạc, năm lần bảy lượt mời tôi ra thăm chơi.
Nghe nói, ba hắn là cán bộ lớn ở Hà Nội, điều nầy trước đây tôi chưa hề nghe hắn tiết lộ , tôi cũng chẳng trách hắn vì thời trước ở Miền Nam ai cũng che giấu có thân nhân ở “bên kia”. Nhờ sự sắp xếp của cha và năng lực bản thân, hắn thăng quan tiến chức như diều gặp gió, sau mấy chục năm hắn trở thành một trong những cán bộ chóp bu của tỉnh cho đến ngày về hưu. Còn tôi vẫn là chuyên viên ngân hàng, sau khi nghỉ hưu làm bán thời gian cho một vài công ty tư nhân “cho vui” rồi nghỉ hẳn. Cũng như giày dép, người ta ai cũng có số má. Cái số tôi nó vậy, lình bình như bèo lục bình, nước lên thì mình trôi lên, nước xuống thì dạt theo con nước ròng, vẫn xanh tốt, ra hoa rực rỡ như ai, có điều chẳng sánh được với hoa lan, hoa hồng,…Mà sánh để làm gì? Phận hoa lục bình đã sao nào. Hoa càng đẹp, càng quý càng dễ bị cắt nguyên cành đem bán cho người ta chưng. Hoa lục bình an toàn hơn, mặc sức nở, rồi tàn giữa trời nước mênh mông.
2.
Hắn đón tôi ở bến xe bằng chiếc Lexus màu đen metallic mới cáo cạnh. Lúc đó khoảng 11 giờ trưa. Hắn mặc đồ chơi tennis, dường như hắn từ sân chơi nào đó đển đón tôi. Tôi ngồi trong quán café do hắn chỉ dẫn, cố quan sát mọi người tới lui để tìm hắn. Nhưng cả hai chúng tôi đều không nhận ra nhau, cho đến khi hắn móc MP gọi tôi,  “Tấn, mầy ngồi chỗ nào mà tao không thấy…”, lúc đó tôi mới nhận ra hắn đang đứng ngay trước quán cách chỗ tôi ngồi mấy bước chân. “ Tao đang ngồi sau lưng mày nè…”, nghe tôi đáp qua máy hắn quay lại, đút máy vào túi, reo lên: “Thằng quỷ, mầy thay đổi  nhiều quá, tao nhận không ra…”. Hắn cũng thay đổi đến độ nếu không hẹn, chắc tôi tưởng nó là người chưa từng gặp trong đời. Hồi đó hắn ốm tong teo, lại làm nghề “bán cháo phổi” nên cứ sợ mắc bệnh lao. Bây giờ mặt hắn tròn bóng nhẫy, bụng bự, tóc nhuộm đen thui xịt keo chải ngược khiến khuôn mặt hắn tròn quay như mặt ông địa. Phần trên phì lũ của cơ thể hắn đè nặng đôi chân ngắn đủn nên trông hắn thêm lùn tịt.
Khi đã lên xe, hắn bảo tôi, “ Sao mầy ốm quá vậy, có bịnh hoạn gì không?”. Tôi đáp, “Chả có bịnh gì nghiêm trọng, mỗi thứ yếu đi một chút nhưng cơ bản vẫn còn xài được năm mười năm nữa…”. Hắn cười rồi than, “ Tao bịnh đủ thứ, áp huyết cao, gan nhiễm mỡ, thận cũng có vấn đề …tao cố giảm cân mà vẫn thế…Cái nghề làm quan thật độc hại, ăn nhậu mấy mươi năm mà còn được vầy là may. Nhiều người nhỏ tuổi hơn tụi mình mà mang đủ thứ bệnh trầm kha, một số ‘tử trận’ vì ung thư gan, phổi, suy thận, đái tháo đường…”. Đúng là “tử trận”, quan trường, thương trường cũng là chiến trường, tất nhiên có thương vong. Sự thành đạt nào chẳng phải trả giá. Tôi tự an ủi kiểu A.Q của Lỗ Tấn: “Xem ra mình cũng may mắn”. Tôi cười vì ý nghĩ đó. Hắn bận lái xe nên chắc không thấy tôi cười.
Con cá trong lờ đỏ mắt, thế mà vẫn có nhiều con cá ngoài lờ lấn nhau chui vô. Không trách được vì cái lờ thật hấp dẫn. Quyền đi đôi với lợi. Nói cho sòng phẳng: không phải ai cũng dựa quyền lực để trục lợi vì vẫn có những ông bà quan thanh liêm. Nhưng trong hệ thống quyền lực muốn giữ bàn tay sạch không dễ, có khi  bị hệ thống đó đẩy ra, chí ít cũng bị cô lập. Thời nào cũng vậy. Có vậy, Khuất Nguyên mới tự trầm mình xuống sông Mịch La mà chết. Hắn vốn là giáo viên dạy văn nên rất rành chuyện của họ Khuất. Cuối cuộc viếng thăm, cùng nhau nhâm nhi café chờ xe bus, hắn tâm sự, “tao nghe lời lão ngư phủ khuyên Khuất Nguyên: nước sông Thương Lan trong thì giặt dải mũ, nước sông Thương Lan đục thì rửa chân (1). Sông nào cũng có bến đục bến trong, làm chó gì có nước trong hết theo ý mình. Nước đục dễ thả câu…ha ha”. Tôi đế thêm, “ Đục nước béo cò”. Tưởng hắn giận, ai ngờ hắn còn phụ họa, “Đúng quá”.
Mới gặp lại nhau, tôi đã nghĩ hắn giàu nhưng khi về đến nhà hắn, tôi không khỏi ngạc nhiên. Đó không phải là nhà mà là dinh thự với villa đồ sộ nằm trong khuôn viên rộng mấy ngàn mét vuông trồng đủ loại kỳ hoa dị thảo, từng dãy bonsai, ngoạn thạch to nhỏ, cao thấp dọc các lối đi rải sỏi quanh co. Cuối vườn là hồ trồng sen, súng với nhà thủy tạ tuy không lớn bằng nhưng chắc chắn đẹp hơn nhà thủy tạ của vua Tự Đức ở Khiêm lăng ngoài Huế. Đã có nhiều người chờ chúng tôi với thức ăn đồ uống bày sẵn. Thảo nào, tôi thấy mấy chiếc ô-tô sang trọng đậu ngoài sân trước.
Hắn giới thiệu tôi với mọi người, “ Đây là anh Tấn, bạn chí cốt của tôi như tôi đã nhiều lần nhắc đến, do bận công tác nên mấy chục năm rồi chúng tôi mới có dịp gặp nhau…”. Hắn cố ý không nói đến địa vị nhân viên ngân hàng quèn của tôi. Hắn giới thiệu tên, chức vụ của từng người bắt tay tôi giống như các vị nguyên thủ tiếp đoàn quốc khách. Tôi chưa từng có dịp được bắt tay nhiều quan chức, doanh nhân đến thế. Hắn chỉ bỏ sót không giới thiệu một phụ nữ còn khá trẻ, có lẽ lúc ấy bà ta đang bận chỉ dẫn những người phục vụ bày biện thức ăn, đồ uống. Lúc đầu tôi tưởng bà ta là người của nhà hàng nào đó được hắn thuê làm tiệc nhưng sau đó bà ta cũng ngồi vào bàn và được nhiều thực khách săn sóc chu đáo.
Hắn mời tôi đi tham quan bên trong nhà. Trước hết là phòng làm việc rộng thênh thang với bàn bureau bằng gõ đỏ, ghế bọc da, desktop, laptop lủ khủ. Trên tường treo những tấm pa-nô lớn lồng kính những sơ đồ dự án khu biệt thự cao cấp, resort bờ biển, cao ốc văn phòng,…Hắn thuyết trình, “ Đất là vàng. Người thì sinh sôi nẩy nở, nhu cầu nhà ở, văn phòng, khu nghỉ dưỡng, khu văn phòng ngày càng tăng nhưng đất đai ngày càng thiếu, cung ít, cầu nhiều thì giá trị biên tế càng tăng…Tao nghỉ việc nhà nước nhưng vẫn còn sức làm việc. Làm kinh doanh cho mình có cái thích thú của nó. Trâu chậm uống nước đục. Vả lại, làm việc cho vui…”. Tôi nghĩ đến bong bóng địa ốc không biết nổ lúc nào với nợ xấu hàng trăm ngàn tỷ đồng, các đại gia đang ngáp như cá mắc cạn. Kinh doanh đâu phải “làm cho vui”, hắn đủ khôn để biết điều đó. Thôi, mặc kệ hắn, có sức chơi có sức chịu.
Tôi mệt bở hơi tai đi theo hắn xem từ tầng trệt lên đến lầu hai và nghe hắn thuyết trình từ công việc kinh doanh, các tiện nghi, vật liệu trang trí nội thất, đến chuyện mấy đứa con đang du học và sinh sống ở nước ngoài…Tôi có cảm tưởng hắn đang tranh thủ báo cáo tổng kết với tôi những thành quả hắn tạo dựng được trong mấy mươi năm từ ngày chúng tôi chia tay nhau. Có một điều hắn chưa “báo cáo”, nên tôi phải hỏi: “ Bà xã ông…?”. Tôi chưa nói hết câu, hắn chận ngang, “ A… bã lên Sài Gòn ở với đứa con gái đầu”. Tôi không hỏi thêm.
Hắn đưa tôi đến phòng ngủ dành cho tôi để tôi rửa ráy, rồi cùng nhau trở lại nhà thủy tạ. Tiệc đã bày sẵn, người phục vụ lăn xăn bưng bê, khách cười nói ỏm tỏi. Cuộc nhậu bắt đầu rơm rả như mọi cuộc nhậu của tầng lớp trưởng giả mới trên khắp đất nước nầy. Rượu thịt ê hề, thừa mứa. Những bụng bia đua nhau, thách nhau trút đầy bia qua những miệng phễu. Những khuôn mặt vốn bóng lưỡng càng bóng thêm, đỏ thêm hay tái mét. Và trên bàn nhậu là sự bình đằng, không cần giữ kẽ, không phân biệt trên dưới, lạ quen…Tự do ngôn luận cũng vậy, mạnh ai nấy nói, ai muốn nói gì cũng được, từ chuyện triều đình đến bia ôm, từ triết học đến mánh mung, từ thơ văn đến chửi tục, nói xấu người khác …cứ tuôn ra tùy thích.
3.
Tiệc tàn. Khách biến. Hắn đưa tôi đến “trà đình” ở phía bên trái hồ, nơi dành riêng cho hắn uống trà để “tĩnh tâm” – theo lời hắn. Đúng là một cái “đình” bát giác theo phong cách Trung hoa, lợp ngói lưu ly, cột kèo bằng gỗ quý. Bàn tròn mặt đá cẩm thạch với bốn ghế đẩu đặt ở giữa. Liễu rũ quanh hòn non bộ bằng đá vôi Ninh Bình cao gần hai mét thay thế tấm bình phong. Dưới bóng cây nhãn sum sê cạnh đó treo lủng lẳng nhiều lồng chim.
Hắn tự tay pha trà với bộ ấm chén Tàu cổ. Tôi vốn thích đồ cổ nên tò mò xem dưới đáy bình có khắc chữ Hán “ Càn Long thập bát niên chế”(2), nét chữ sắc sảo, có vẻ không phải hàng nhái. Hắn nói, “ Đồ cổ thật đấy. Đồ gia bảo của một đệ tử tao tặng đấy…”.
Chờ trà ngấm, hắn rót ra chén tống (3), rồi chia đều ra hai chén nhỏ. Vừa nhấp chén trà ô long, hắn vừa mở lời, “ Tao thấy mầy không được vui…”. Tôi phân bua, “ Đâu có. Tại tao đi đường hơi mệt, chưa kịp nghỉ lấy sức mầy đã kéo vào trận. Vả lại, từ lâu tao bỏ nhậu. Mầy cũng nên giảm, tuổi bọn mình nhậu nhiều không tốt”.
Hắn im lặng uống trà, có vẻ trầm ngâm, mãi sau hắn mớ nói, “ Tao biết. Nhưng cuộc chơi nó thế, đã xuống sân thì phải theo bóng, đá bóng cho đến khi trọng tài thổi còi mãn cuộc hoặc bị chấn thương phải rời sân trên cáng…”. Tôi cười, “ Ủa mầy về hưu rồi, vậy mà chưa hết trận đấu sao?”. Hắn phân trần, “ Hưu là với nhà nước. Còn với anh em, đệ tử thì…chưa, còn hai hiệp phụ, còn đá phạt đền luân lưu. Dễ gì muốn nghỉ là nghỉ”. Tôi kêu lên, “ Cũng may, người ta bỏ luật cái chết bất ngờ”. Hắn ho khan một lúc rồi nói, “ Đâu có bỏ. Vẫn còn cái chết bất ngờ đấy. Thiếu gì đứa đột quỵ, đứt bóng, thậm chí dựa cột…”.
Tôi chợt nhớ một chuyện cũ, tôi hỏi, “ Nè Thân, mớ đồ lót phụ nữ hàng ngoại mầy mua ở khu Lăng Cha Cả lúc mới giải phóng, sau nầy có bán được không?”. Hắn cười hô hố,  “Bán hết sạch. Tao kiếm bộn tiền, toàn tiền miền Bắc. Mấy bà miền Bắc giá mấy cũng mua. Mầy nhớ dai ghê…”. Chuyện là thế nầy, khoảng giữa tháng Năm 1975, hắn bảo tôi,  “Đừng giữ tiền VNCH, nay mai thế nào cũng đổi. Vàng cũng không được xài. Cứ đem mua thứ hàng gì nhà nước không cấm, mà có cấm cũng không dễ kiểm soát. Đồ lót phụ nữ là thứ các bà, các cô thời nào, ở đâu cũng thích, nhất là hàng ngoại sau nầy làm gì có. Tao mua mấy trăm bộ, giá rẻ rề, sau nầy cứ từ từ đem bán…”. Xem ra hắn có máu kiếm tiền bẩm sinh.
Tôi lại hỏi hắn, “ Nhà cửa thế nầy mà mầy sống một mình à?”. Hắn cười, “ Cái số tao nó vậy. Con cái lớn có gia đình riêng, sự nghiệp riêng…”. Tôi buột miệng lặp lại câu hỏi chưa được hắn trả lời đầy đủ, “ Còn bà xã mầy?”. Lần nầy hắn mới chịu khai, “ Tao với bã ly thân cả chục năm rồi, nhưng để không ảnh hưởng đến con cái và công tác của tao, bọn tao thỏa thuận giữ kín, bã lên Sài Gòn ở với con gái lớn…”. Tôi không hỏi thêm và chợt nhớ đến người phụ nữ sồn sồn khá xinh có mặt trong bàn nhậu, luôn được thực khách nâng ly mời và thỉnh thoảng “chỉ đạo” đám gia nhân phục vụ. Tôi nhủ thầm, “À ra thế!”
Đến lượt hắn chuyển đề tài, “ Tao nuôi chim và chó. Chó thì giờ nầy phải nhốt, tối mới thả để giữ nhà; tao có sáu con, gồm bốn con giống berger Đức, một con Phú Quốc và một con chó kiểng Nhật. Còn chim thì chút nữa tao dẫn mầy xem. Nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn cũng thích nuôi chó và chim, ông nói thật chí lý rằng chó luôn trung thành và không chê chủ nghèo, còn chim không chỉ biết hót mà có con còn biết nói tiếng người. Tao cũng có một con vẹt rất thông thái…”. Tôi nghĩ: ông Ẩn xem chim và chó là bạn, còn hắn thì khác.
Hắn đưa tôi đến gốc cây nhãn, nơi treo lủng lẳng cả chục lồng chim đủ loài, đủ màu sắc và giới thiệu tôi với nhà thông thái vẹt. Tôi không thấy con vẹt nầy có gì đặc biệt, cũng giống như bao con vẹt khác. Thấy chủ, con vẹt chào bằng thứ tiếng Anh của loài…vẹt mà người Anh chưa chắc đã hiểu nếu chủ nó không nhắc tuồng, “ Good morning”. Rất tiếc lúc đó đã hơn ba giờ chiều. Con vẹt chuyển sang tiếng Pháp, “ Bonjour”. Chưa hết, nó hỏi, “ khỏe không?”, tiếp theo, “ đừng anh”. Đó là nhờ chủ nó thông dịch sang tiếng Việt phổ thông cho tôi hiểu, nếu không tôi chịu chết. Tôi ngạc nhiên chọc hắn, “ Đừng anh, là thế nào? Sao lại đừng?”. Hắn cười, giải thích, “ Đó là nó bắt chước bà bạn của tao. Với mầy, tao không giấu. Mỗi lần tao cao hứng đụng tới bã là bã kêu như vậy. Nhiều lần nghe được, con vẹt nhập tâm nói theo. Mỗi lần thấy tao là nó xổ câu đó. Cũng may, người lạ như mầy, nếu tao không thông dịch thì không hiểu”. Tôi trêu hắn, “ Lần sau mầy nhớ đừng làm gì trước mặt nó, có làm thì dặn bã đừng kêu”. Cả hai chúng tôi cùng cười.
Vốn ngôn ngữ của con vẹt thông thái tưởng chỉ có bao nhiêu đó, ai dè khi tôi và chủ nó bước đi, nó kêu lên liên hồi “ Đ*M*”. Phát âm của nó khá rõ, thoáng nghe là nhận ra ngay. Hắn ngạc nhiên quay lại mắn con vẹt, “ Nói bậy”. Càng bị mắn con vẹt thông thái càng “xổ nho chùm”. Hắn bực mình kéo tôi đi, phân bua, “ Không biết nó học đứa nào? Thôi chết…Tao nhớ rồi. Hôm qua có mấy chú săn sóc cây kiểng hễ mở riệng ra là chửi thề. Để rồi tao kiếm cách cải tạo nó”. Tôi đùa, “ Đâu có sao. Ở đời có khi cũng cần chửi thề như Cao Bá Quát khi ra pháp trường ấy(4)”.
Hắn cố lưu tôi lại chơi nhưng tôi nhứt định về ngay chiều hôm đó. Khi tôi bước lên xe đò, hắn goi dựt ngược: “ Nầy Tấn, tao biết mầy không thích ở chơi chứ chẳng có lý do gì phải về gấp. Tùy mầy. Tao nói thật, mầy ra thăm tao rất vui. Đã lâu rồi tao không có bạn…”. Hắn bỏ lửng nhưng tôi hiểu hắn muốn nói gì. Tôi bắt tay hắn lần nữa và dặn,  “Khi nào vào Sài Gòn nhớ gọi tao, bọn mình ra Brodard uống café xem thử có gì khác trước không, nghe nói họ mới sửa lại”. Hắn “ừa” rồi vội vã quay đi.
Một thời gian sau, tôi hỏi thăm về con vẹt thông thái, hắn cho biết hắn đã dùng mọi cách để reset, tẩy não con vẹt nhưng nó vẫn ra rả chửi thề. Nhiều vị quan to, quan nhỏ đến thăm hắn đều bị con vẹt chửi thề vuốt mặt không kịp. Bực mình, hắn mở cửa lồng để con vẹt bay đi đâu thì bay cho khuất mắt nhưng con vẹt bay quanh quẩn trong vườn rồi lại chui vào lồng. Giết nó thì tội. Cuối cùng theo chỉ dẫn của một tay nuôi chim có kinh nghiệm hắn cắt cụt bớt phần ngoài lưỡi con vẹt để nó học nói trở lại, bỏ những tiếng nó đã quen nói. Con vẹt vẫn sống, vẫn ăn ngon, ở lồng đẹp, không còn nói những thứ nó từng nói trước đó nhưng suốt ngày chỉ ú ớ tiếng vẹt không ra tiếng vẹt, tiếng người không ra tiếng người.*

4-11-2012

-----------------
Những tên nhân vật, địa danh, sự kiện trong truyện là hoàn toàn hư cấu, nếu có sự giống nhau là hoàn toàn ngoài ý muốn của tác giả. NT
(1) Dịch nghĩa bốn câu của bài Sở từ “Ngư Phủ”: Thương Lan chi thủy thanh, khả dĩ trạt ngô anh hề/ Thương lan chi thủy trọc, khả dị trạt ngô túc hề.
(2) “Càn Long thập bát niên chế” – Chế tạo năm Càn Long thứ 18.
(3) Chén “tống” là chén lớn trong bộ bốn chén trà, dùng để chế nước trà từ trong bình ra trước khi phân đều cho ba chén nhỏ để không có chén nào đậm chén nào nhạt hơn.
(4) Cao Bá Quát: “ Ba hồi trống giục đ*cha kiếp/ Một nhát gươm đưa đ* mẹ đời”.

--------------------
* nguồn: xunau.org

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét