Làm thơ là sáng tạo, là đam mê, có khi say nhiều hơn tỉnh. Người
cổ đại gọi nhà thơ là "nhà tiên tri". Các nhà thơ lớn thường nhận
mình là "nhà thơ - công dân", là "tiếng dội" của cuộc sống,
là hơi thở của thời đại. Muốn xứng đáng với danh hiệu đó, nhà thơ phải có tài
đã đành, nhưng trước hết phải có lý tưởng xã hội, phải dồn tích năng lượng, nhiệt
huyết của mình để ngọn lửa cảm hứng sáng tạo luôn cháy sáng... Tại sao thơ
đương đại có hiện tượng khủng hoảng? Chưa thấy những nhà thơ nổi bật, ít bài
thơ hay, thiếu nhiều câu thơ đẹp đọng lại trong lòng công chúng? Thậm chí nhiều
nhà phê bình bức xúc, nói nặng lời về thơ đương đại không phải không có chỗ
đúng. Loại thơ - vè có chiều hướng lan rộng; thơ - văn xuôi lủng củng với những
đoạn thơ bàng bạc, những ý thơ nhạt nhẽo, dễ dãi; thơ khó hiểu làm bạn đọc
"nuốt không trôi", xa lánh… v.v...
Đi tìm nguyên nhân của thực trạng trên của thơ đương đại, từ
một hướng tiếp cận văn hóa đọc, tôi chọn ra mấy nội dung học thuật sau:
1. Mơ hồ về lý tưởng xã hội của thơ ca
Làm thơ là sáng tạo, là đam mê, có khi say nhiều hơn tỉnh. Người
cổ đại gọi nhà thơ là "nhà tiên tri". Các nhà thơ lớn thường nhận
mình là "nhà thơ - công dân", là "tiếng dội" của cuộc sống,
là hơi thở của thời đại. Muốn xứng đáng với danh hiệu đó, nhà thơ phải có tài
đã đành, nhưng trước hết phải có lý tưởng xã hội, phải dồn tích năng lượng, nhiệt
huyết của mình để ngọn lửa cảm hứng sáng tạo luôn cháy sáng. Lý tưởng xã hội là
mục đích cao nhất, là lẽ sống đẹp nhất của nhà thơ. Lý tưởng cần cho mọi người.
Ông vua không làm đúng lý tưởng của mình, thì dân có quyền lật đổ. Sáng tạo, tự
do mà không vì con người, không có mục tiêu thì chỉ là hư tưởng, vô dụng. Mươi
năm gần đây, hiện tượng một số nhà thơ trẻ muốn nổi danh ngay, liên tiếp đưa ra
những tuyên ngôn cao ngạo. Những câu thơ buông tuồng, thô thiển thỉnh thoảng
xuất hiện trên các trang báo.
Ngày xưa các nhà thơ lớn đã có lời răn: "Danh lợi, tước
lộc thường đi đôi với vạ lớn" (La Ẩn - nhà thơ đời Đường trong bài "Ngụ
hoài" có câu: "Danh lợi ngoài thân chớ vội cầu/ Tước lộc có vui nhưng
vạ lớn"). Văn chương, thơ ca là sự nghiệp của nghìn đời (văn chương thiên
cổ sự). Nhà thơ là con ong khôn ngoan biết hút mật ở các loài hoa về xây tổ ấm
cho thơ, cho cộng đồng, chứ không đi đốt bậy người đời, dễ bị người ta châm
lửa, hun khói xua đuổi, có khi vỡ cả tổ. Nhà thơ có quyền viết bất cứ đề tài
nào, khai thác mọi nỗi niềm sâu kín của tâm trạng: nỗi đau, niềm vui, hạnh
phúc, bất hạnh... nhưng khi bài thơ được công bố thì nó không còn là của riêng
nhà thơ mà của xã hội, là đối tượng cảm thụ của hàng trăm nghìn thị hiếu khác
nhau.
Khen - chê, chấp nhận - từ chối là chuyện của dư luận xã hội.
Nhà thơ không vì được khen mà cao ngạo, bị chê mà chán nản. Hiệu ứng của sự
khen - chê nằm ở tài năng, trước hết là ở tấm lòng người viết, ở lý tưởng xã hội
mà nhà thơ theo đuổi. Một số người cứ thiên kiến nghĩ rằng, lý tưởng xã hội là
cái nằm ngoài văn chương, do sự áp đặt của một tổ chức nào đó. Không phải! Nó
là bầu máu nóng, là cảm hứng chủ đạo của bất cứ nhà thơ nào dù chỉ viết một dòng.
Để khẳng định một thái độ sống, một nhà sinh quan được lý tưởng xã hội định
hướng, Chế Lan Viên viết: "Ta đẻ ra đời, sao khỏi những cơn đau/ Hãy biết ơn
vị muối của Đời cho thơ chất mặn".
2. Cách tân, sáng tạo là quy luật tự nhiên, tự tại của thơ ca
Cách tân không phải là mục đích, mà chỉ là phương tiện, là thao
tác kỹ xảo, là sự tìm kiếm ý tưởng mới, hình tượng mới, ngôn từ lấp lánh. Sở dĩ
ta gọi trường phái thơ 1932 - 1945 là THƠ MỚI là vì các nhà thơ rất có ý thức
cách tân (nhờ ảnh hưởng của giao lưu văn hóa đầu thế kỷ XX) làm xuất hiện nhiều
nhà thơ tài hoa. Qui trình cách tân đưa thơ đến với số đông bạn đọc, nhất là
thanh niên, học sinh cũng không thể có thơ hay. Muốn cách tân gì thì cách, trước
hết nhà thơ phải có tài. Trong thơ ca, tài năng là sự chân thật, chân thật tối
đa. Ở đây nhà thơ và nhân vật trữ tình là một, trùng khít đến mức khó tách làm
hai. Mọi thứ giả vờ, làm dáng, cường điệu cảm xúc của người viết thật xa lạ với
tính chân thật trong thơ. Có đau thì nói đau, nỗi đau của người trong cuộc. Có
đủ kiến thức để khái quát câu thơ thành triết lý sống, thì cứ việc làm, chứ vay
mượn sống sượng dù là của ai cũng không khó bị người đọc lật tẩy. Trong thơ
đương đại, do tâm lý hấp tấp, hiện tượng "ăn non" quả chưa chín đã
hái, nên vừa chát, vừa chua. Thông thường khi làm thơ, nhà thơ khó phân biệt
đâu là trái tim, đâu là bộ óc, đâu là cảm xúc, đâu là trí tuệ, đâu là phi lý,
đâu là hữu lý (đánh giá thơ không có chuyện đúng - sai, chỉ có hay - dở), nhưng
khi bài thơ ra đời, được đông đảo người đọc đón nhận là nhờ hình tượng thơ mới
- lạ, tình cảm nhà thơ thăng hoa, năng lượng tinh - khí - thần của bài thơ tỏa
sáng. Trong thơ ca kháng chiến ở cả hai giai đoạn nhiều bài thơ viết về đề tài
mất mát, bi thương, về chia ly, mặc dù kỹ thuật có chỗ chưa thật hoàn hảo,
nhưng vẫn đọng lại sâu thẳm trong lòng người qua nhiều thế hệ: "Màu tím
hoa sim", "Núi đôi", "Quê hương", "Hương thầm",
"Cuộc chia ly màu đỏ"… v.v... Viết về đề tài Tổ quốc, lãnh tụ, người
phụ nữ Việt Nam,
thiên nhiên đất nước, các nhà thơ đều để lại những trang thơ vừa đạt tầm triết lý,
vừa mang cảm xúc dạt dào của nhiều thế hệ.
Hiện nay, nhiều bài thơ được gọi là thơ - văn xuôi, nhưng đọc
lên nghe sao lổn nhổn, lủng củng. Nếu là thơ thì ít ra là nhạc tính, nếu là văn
xuôi là sức khái quát của văn tự sự. Khi cách tân thơ, một nhà thơ cảnh báo:
Mỗi lần cách tân, thơ thường mở cửa và văn xuôi tràn vào. Có hiện tượng tàn phá
của văn xuôi khi tràn vào thơ. Sự tàn phá đó đưa lại hệ lụy: Thơ mà không phải
thơ. Ở chỗ này, tôi thấy nhận xét của nhà thơ Nguyễn Hữu Quý là đáng trân
trọng: "Tôi nhận ra sự lặp lại, mòn cũ và ồn ào trong một số bài thơ viết
về đất nước hiện nay. Ít lắm những sáng tạo mới về cấu trúc, hình tượng, ngôn
từ. Thơ nghiêng về sự ầm ào, cao giọng, tuyên truyền cổ vũ mà không có câu hay,
những ám ảnh lâu bền. Thoạt nghe có vẻ mênh mông, hoành tráng, nhưng khi đọc kỹ
bằng mắt ta thấy vô vàn sáo rỗng, cũ kỹ...".
3. Không có phông văn
hóa, thiếu tri thức triết - mỹ, nhà thơ khó đi được xa
Có nhà văn hóa nói, gốc của cây thơ là phù sa văn hóa, là tri
thức của nhiều lĩnh vực khoa học và là sự lịch duyệt, trải nghiệm. Nhà thơ mà
chỉ dừng lại ở cảm xúc bàng bạc, trí tuệ nông cạn, tầm tưởng tượng thiếu hụt...
thì dễ dẫn đến tình trạng rối loạn hình tượng, nghèo nàn ngôn ngữ. Đó là chưa
nói sự bắt chước vồ vập một vài khuynh hướng thơ hiện đại, hậu hiện đại của bên
ngoài. Giả dối là điều tối kỵ trong nghệ thuật, rất tối kỵ trong thơ. Nói
chuyện với các nhà thơ trẻ, M.Gorki đã phân biệt nhà thơ và người thợ thơ. Người
thứ nhất luôn ý thức, phấn đấu nhọc nhằn để có tâm lý sự kiện, thân phận ngang trái
của con người, chiều sâu tình cảm, tính đa nghĩa, đa sắc của ngôn ngữ thơ; còn
người thứ hai thường bằng lòng, dễ dãi trước nhiều hiện tượng dồn dập của cuộc
sống, sa đà vào lối liệt kê, chắp nối từ ngữ, thiếu vắng cảm hứng thi ca, nên
thơ biến thành vè. Liên quan tới nội dung này, tôi nêu hai ý niệm vẻ đẹp câu
thơ và cái mới trong thơ. Có nhà mỹ học nói, mọi thể chế chính trị sẽ qua đi,
câu thơ đẹp vẫn tồn tại mãi mãi. Điều đó đúng khi cái Đẹp gắn liền với cái
Thiện. Nhà triết học Đức, E.Căng nói đại ý: Lý tưởng của chân lý là của Thượng
đế, còn lý tưởng của cái Đẹp là của con người. Cái trước nằm ở giai đoạn "cảm
thụ tự nhiên", còn cái sau là "cái phải trở nên".
Thơ gắn với Chân, Thiện, Mỹ giống như thỏi nam châm có sức hút,
sức cảm hóa mọi thị hiếu, mọi người đọc ở nhiều thời đại. Còn cái mới trong thơ
tìm ở đâu? Tất nhiên không phải từ trên trời rơi xuống, cũng không phí công lục
lọi trong đống phế loại từ ngoài biên giới lọt vào, càng không phải vắt óc trần
trụi nghĩ ra. Nó ở trong biển kiến thức mênh mông và sâu thẳm của loài người.
Nó có được là nhờ tài năng, tầm nhìn, sự định hướng sức bay của trí tưởng tượng
(tưởng tượng thiếu định hướng dễ biến thành "con điên trong nhà").
Nhà thơ phải cậy học vấn. Xin đừng hiểu nhầm học vấn là bằng cấp, học vị, mà là
thực học, thực tài, trải nghiệm cuộc sống. Nhà thơ Pháp Ch. Beaudelaire rất quí
trọng trường học đường đời: "Tôi có quá nhiều kỷ niệm như thể đã sống
nghìn năm để đòi hỏi sự đọc". Còn Đổ Phủ: "Đọc thơ phú vạn quyển, hạ
bút như hữu thần". Có thể có học vấn mà thơ không hay, nhưng có bài thơ
hay, câu thơ để đời thì nhà thơ có học vấn cao rồi đấy! Cha ông ta thường dạy:
"Bản chất của văn chương tự học vấn mà ra, học vấn uyên bác thì văn viết
mới hay. Có lẽ nào văn chương lại làm cho người ta kiêu căng!?" (Lê Quí
Đôn).
Trong biển cả tri thức khổng lồ của nhân loại, có cái vừa cao
siêu, vừa thiết thực, vừa bổ ích, vừa vô bổ, việc đi tìm cái mới trong đời sống
và trong nghệ thuật để ứng dụng vào lý thuyết thơ và sáng tạo thơ cũng phải
liệu sức mình, giống như bơi trong biển cả; cần biết cách đọc, cách tiếp cận,
chớ lóa mắt, tuyệt đối hóa một hiện tượng nào, dù là thần tượng. Paul Bourjée
cho rằng, nhà thơ cần phải biết các triết thuyết, tri thức xã hội học, tâm lý
học mới nhất mà mình đọc được và cần theo đuổi "niềm say mê trí tuệ".
Các nhà thơ trẻ cần giữ vững bản lĩnh khi tìm đến cái mới, cái lạ. Không phải
cái mới, cái lạ nào cũng đi tận cùng sáng tạo. Những dữ kiện nào cần cho thơ? -
Đó là sự săn đuổi những đề tài xã hội và thân phận con người, tri thức cần và
đủ cho cảm hứng, phản xạ, kho tàng ngôn từ, kỹ xảo thơ (vần, âm luật, điệp âm,
hình ảnh, văn khí...). Mọi thứ bắt chước kỳ quặc, thô kệch, mọi thứ suy nghĩ
rối rắm, ngôn từ bệnh hoạn (mot malade) hiện tượng làm ô nhiễm ngôn ngữ, cách
diễn đạt rắc rối, gượng gạo, vờ vĩnh về đề tài tình dục, tình yêu nam nữ đều xa
lạ với thơ đương đại và hệ lụy là bạn đọc xa lánh.
---------------------
* nguồn: lethieunhon.blog
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét