người đi tìm hồn
Lần nào về quê nhà, tôi vẫn cảm giác mình là người có lỗi.
Mặc cảm ấy như tăng hơn khi một trong những người bạn thân nhất từ thuở thiếu
thời là Lê Xuân Tiến đi vào cõi vĩnh hằng (18-7-2012). Từ thuở tập tễnh lập
“Thi văn đoàn”, tôi đã gọi bạn là một “Nhà văn”.
Đường từ huyện lỵ Tuy Phước đến mé biển Tân Thanh quê tôi có
2 dấu ấn danh nhân là mộ ông tổ nghệ thuật hát tuồng Đào Tấn ở chân núi Huỳnh
Mai, và căn nhà nơi thi sĩ Xuân Diệu chào đời, ở thị tứ Gò Bồi. Giữa 2 điểm
vùng núi Kỳ Sơn có 2 tảng đá lớn được người dân đặt tên theo âm vang gõ vào
vang ra: đá Trống và đá Mõ. Lần trở lại đầu tiên sau mấy năm vào Sài Gòn bươn
chải, núi Kỳ Sơn biến thành một công trường khoáng sản. Hai tảng đá quý đã bị
chẻ thành vật liệu xây dựng. Tình trạng ấy cũng diễn ra tại núi Xương Cá ở xã
Phước Thuận ven đầm Thị Nại giáp ranh, nơi sinh của Lê Xuân Tiến.
Ngậm ngùi
Những hòn đá Trống, Mõ, Xương Cá khá nổi tiếng, được thi sĩ
Quách Tấn miêu tả khá kỹ trong cuốn Nước non Bình Định. Chúng cũng cảm hứng từ
huyền thoại cho tôi viết nên trường ca Quảy đá qua đồng (1974). Thời cuộc đổi
thay, vì thực dụng nên người ta đang tâm phá nát chúng. Tôi báo với Tiến về nỗi
buồn qua chuyến trở về thăm quê đầu tiên này (1988). Lúc đó anh cũng trầm ngâm:
mình phải vững, vì vẫn có những sự phá hủy lớn lao hơn: về tinh thần.
Đầu năm 2012, trong một truyện ngắn, LXT tự ngậm ngùi:
“Ở tuổi sáu mươi,tôi băt đâu nghĩ tới thơi gian. Thời
gian là món quà mà thượng đế ban tặng cho con người nhưng là một món
quà rất khắc nghiệt tùy theo cách của người dùng nó. Tuổi thiếu
niên khi bắt đầu biết nhận thức, thời gian đi chậm quá. Từ hai mươi
tới bốn mươi, hăng hái đi vào cuộc sống, có thành công có thất bại, hình
như tôi không biết có thời gian. Đến bốn mươi trở lên, thời gian hình
như đi quá nhanh. Chả mấy chốc đã nghe "gió heo may lại về", đầu
tóc đã bắt đầu xuất hiện những sợi bạc. Những đứa trẻ hai mươi năm
trước còn đang nói bập bẹ, giờ đã cao lớn trưởng thành gây ra sự
ngỡ ngàng của những người sinh ra chúng. Hôm nào đó với tôi lại xuất
hiện những lời lẩm bẩm "mới đây mà...". Hai mươi năm là
khoảng thời gian không ngắn đối với con người nhưng với tôi lúc này
chỉ như một cái chớp mắt…
Đôi lúc tôi tự nhìn lại mình để xem mình có hối
tiếc đều gì trong hai phần ba cuộc đời đã trôi qua. Như một cái nhìn
vào đáy giếng vào mùa khô, ở đó khi nước cạn tôi sững sờ nhận ra
những đồ vật mình vô tình đánh rơi ở đó. Những lỗi lầm mình đã
vướng phải đã được khuất lấp theo thời gian. Tôi tự nhủ nếu còn thời
gian mình sẽ phải làm lại nhưng chao ôi thời gian đâu còn nữa!”.
(Lê Xuân Tiến, Thời gian – 2012)
Tôi và LXT cùng chung một nhà trọ suốt những năm học đại
học. Năm 1974, anh lấy bằng cử nhân lý hóa (MPC) và theo tiếp các chứng chỉ cao
học. Sau 1975, tôi và Tiến hăm hở cầm các tấm bằng đại học về trường cũ Cường
Đễ, nơi Nguyễn Mộng Giác từng làm hiệu trưởng, xin được đi dạy. Một người
quen,vốn học cùng trường trước tôi một năm, đang là thành viên của Ban giám
hiệu lâm thời tiếp chúng tôi. Y vẫn giữ nguyên thế ngồi gác hai chân trên bàn,
không thèm lật hồ sơ chúng tôi trình, nhưng phán: các anh là tiểu tư sản, không
đi học tập là may rồi, giờ đòi đi dạy ai? Thấy không được, tôi quay về ngay Sài
Gòn đi bán sách chợ trời. Riêng Tiến, có lẽ vì gánh nặng gia đình nên anh ở lại
Quy Nhơn. Anh là con trai trưởng, ba đã mất nên cả đàn em chưa trưởng thành đều
trông cậy nơi anh.
Trước 1975 LXT ký tên Lê Phiên Vươn, đã in một số truyện
ngắn trên Khởi Hành, Văn. Người ta có thể đến với văn chương từ nhiều lý do.
Nhiều người cầm bút từ một năng khiếu bẩm sinh. Vào cuộc chơi này, người cầm
bút nếu theo đuổi lâu dài, coi văn chương là cái nghiệp sẽ xác định một xu
hướng thể hiện. Tất nhiên không thể coi đó là cách nịnh hót để tiến thân.
Định nghĩa về văn chương và mục đích của nó ngày càng thêm đa dạng và phức tạp.
Gần đây, có người xem đó là cách tiếp cận đời sống xã hội. Ý kiến này có lẽ chỉ
đúng đối với người đọc. Với người viết, “văn tức là người”, nên có lẽ còn là sự
lựa chọn và biểu lộ thái độ sống, trong bất kỳ hoàn cảnh xã hội nào.
Tôi, Hồ Ngạc Ngữ, Nguyễn Lương Vỵ từ đầu dù đều cho rằng LXT
là con người của lý trí, nhưng đều khẳng định đó là một nhà văn, theo nghĩa
biết sống và ứng xử đúng để giữ bản chất mình trước mọi hoàn cảnh.
Không được nhận vào dạy ngang cấp 3, vì hoàn cảnh gia đình,
anh chấp nhận vứt bỏ tấm bằng đai học ngành khoa học, nộp đơn vào nhập học
trường Cao đẳng sư phạm (chuyển từ trường quốc gia sư phạm đào tạo giáo viên
tiểu học cũ) để năm 1978 ra trường, đi dạy cấp 2 ở tận một miền quê xa xôi
thuộc huyện Bình Sơn của tỉnh Quảng Ngãi cũ và chắt bóp một ít tiền lương để
phục giúp gia đình tại Quy Nhơn. Ở đó, anh yêu và cưới một cô giáo cùng huyện.
Cuộc sống gia đình khá hạnh phúc. Ở nhà, các em anh cũng lần lượt học hành đến
nơi đến chốn. Trước 1978, anh cũng có viết một số truyện ngắn gửi đăng trên báo
“Văn nghệ giải phóng”, nhưng dần dần lại cũng tắt nguồn. Thời kinh tế “tem
phiếu”, có khi giấc mộng văn chương phải đành gác bỏ. Nhưng anh vẫn đọc nhiều
sách, báo để hiểu đúng về bối cảnh văn nghệ hiện thời. Có lần anh khuyên tôi
ráng dành dụm, mở cho vợ một quầy hàng xén chuyên bán mắm, muối, đường, bột
ngọt… tại nhà để sống qua ngày. Bài học này xuất phát từ sự quan sát khá kỹ hồi
mới lớn, từ tấm gương của những cửa hiệu hàng xén người Hoa ở đường phố trước
nhà anh ở Quy Nhơn dưới đôi mắt của một người thích viết văn xuôi. Anh mê đọc
Võ Phiến, Lê Tất Điều, Dương Nghiễm Mậu…, những nhà văn biết chẻ sợi tóc và tâm
hồn làm ba bốn mảnh…
không “Mê Đạo”
Thời thế xoay vần, LXT khi chuyển về Quy Nhơn làm báo từ năm
1983, đến 1990 lại đưa vợ con vào lập nghiệp ở Sài Gòn, vì thấy nghề báo ở đây
phóng khoáng hơn. Và anh chọn đề tài thể thao, bóng đá để sự thể hiện được “vô
tư”. LXT âm thầm viết văn trở lại, cuối cùng chọn ra cách viết những truyện
lịch sử. Truyện ngắm “Mê đạo” anh viết năm 1991 được lấy thành tên cho tập
truyện in đầu tay, có lẽ như để dễ gửi gắm lòng mình. Năm 2008 và 2010, theo
hình thức “liên kết xuất bản”(tác giả tự bỏ tiền in, phát hành), 2 tập truyện
ngắn Mê Đạo và Người đi tìm hồn được in ra. Cả hai đều khai thác bối cảnh xã
hội và tâm lý các nhân vật thời kỳ anh em nhà Tây Sơn dựng nghiệp. LXT là một
nhà văn không ở trong hội đoàn, tên tuổi ít ai biết; sách phải tự ký gửi cho
các công ty phát hành, nhưng mỗi tập sách đều được nhà phát hành quyết toán
trên dưới 500 cuốn, một điều khá thú vị trong thời buổi văn chương bị xem như
giẻ rách.
Hồ Ngạc Ngữ trong lời bạt cho tập Mê Đạo đã nhìn văn và
người LXT khá đúng:
Trong truyện ngắn của mình, Lê Xuân Tiến ghi nhận những xô
bồ, phức tạp của cuộc đời và sự chìm nổi của thân phận con người, tình yêu đôi
lứa với một thái độ tỉnh táo và với văn phong đôi khi lạnh lùng… Mạch ngầm
trong truyện ngắn Lê Xuân Tiến là thông điệp hướng về chân - thiện - mỹ. Bản
chất của con người và cuộc sống luôn tốt đẹp nhưng mỗi người “phải hiểu đạo mà
sống chứ không mê đạo mà chết”!
(Hồ Ngạc Ngữ, Lời bạt tập truyện Mê Đạo 2008)
Tuổi càng nhiều, sức văn của LXT càng dồi dào. Anh viết
nhiều tùy bút, truyện ngắn, nhưng chỉ đăng tải trên một số trang Web của các
thân hữu. Đáng nói là cái nhìn và thái độ rất khách quan của nhà văn. Là người
của Quy Nhơn, nhiều tự hào về triều đại Tây Sơn, nhưng không phải lúc nào anh
cũng cho rằng “quê nhà cái gì cũng nhất !”:
“… Mỗi lần về lại Quy Nhơn, tôi lại cảm nhận cái
không khí chậm chạp của lối sống tỉnh lẻ. So với nhiều thành phố,
Quy Nhơn còn rất nhiều xích lô đạp. Đi xích lô đạp chúng ta mới cảm
nhận hết sự yên tĩnh của phố và biển. Có thể hình dung thành phố
này như một cái chéo áo, nơi cuối của thành phố là nơi hợp lại của
đầm và biển "Đi năm phút đã về chốn cũ". Giống như câu thơ
của Vũ Hữu Định để hình dung về sự nhỏ bé của thành phố này. Trong
một truyện ngắn của Nguyễn Thành Long nói về sự có mặt lặng lẽ của
cát. Ở đầu đường cuối chợ của thành phố. Nhưng 50 năm sự bành trướng
của nhà cửa đã làm mất đi một địa danh với một cái tên là "Xóm
Động". Đi vào xóm này giữa trưa thì đừng quên đôi dép vì mặt
trời làm cát nóng lên, đi chân trần có thể làm bỏng chân. Ngày xưa
thi sĩ Hàn Mặc Tử đã từng sống ở đây trước khi vào bệnh viện phong
Qui Hòa. Hiện nay nhà thơ của "bến sông trăng" đang yên nghỉ ở
một ngọn đồi nhìn ra biển ở khu Gềnh Ráng, một đầu của biển Quy
Nhơn, nơi đây đã trở thành khu tưởng niệm .
Biển đẹp nhất vào mùa từ tháng ba đến tháng bảy, lúc đó trời
quang, biển lặng, có thể nhìn rõ Cù Lao Xanh phía xa khơi và thấy cả
những bọt sóng trắng đập tung tóe vào các bãi đá ở Gềnh Ráng.
Những bọt sóng này như xoáy vào ký ức của tôi những lúc xa nhà đi
học xa. Biển Quy Nhơn vào mùa gió nồm, thứ gió mát dịu như lời thì
thầm của các cô gái. Gió nồm đã đi vào lịch sử "lạy trời cho
cả gió nồm / để cho chúa Nguyễn giăng buồm kéo ra". Đó là sự thay
đổi của lòng dân, báo hiệu thời suy tàn của nhà Tây Sơn…”.
(LXT , tạp bút Ký ức biển -2012)
--------------------
* nguồn: blog nguyenmienthao
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét