[Trích dịch từ nghệ thuật
triết học của Vương Đức Phong]
Trong hành trình của nghệ
thuật sáng tác, bước thứ nhất là hình thành sự xung động sáng tác;
nó khác với xung động diễn đạt, vì do hai yếu tố cấu tạo nên. Yếu
tố I là do tính siêu việt của tình cảm sinh tồn mà tự thân nghệ
thuật gia cảm xúc (tức là siêu việt tính nội dung của đối tượng
thực tế). Yếu tố 2 là thông qua sự cảm xúc kích thích mà phát sinh
sức tưởng tượng sáng tạo; nghệ thuật gia hình thành một thứ dự cảm
ý tượng thẩm mỹ chưa biết rõ.
Cơ sở xung động sáng tác gồm có hai
phương diện:
I- Tình cảm sinh hoạt của nghệ thuật
gia. Trong cuộc sống hiện thực, mỗi cá nhân chúng ta đều có sự xung
động biểu hiện tình cảm, nhưng nếu muốn biến đồi sự xung động ấy
thành xung động sáng tác, phải vận dụng tình cảm biểu hiện ấy không
thể chỉ là tình cảm của tính đối tượng, mà đồng thời phải là một
thứ tình cảm sinh hoạt trong tình cảm.
Tình cảm sinh hoạt của nghệ
thuật gia, đặc trưng chủ yếu phải mang tính “nhi đồng tâm”. Thường nhân
và nghệ thuật gia đều phải nhiệt tâm yêu cuộc sống, nhưng tình yêu
của nghệ thuật gia đối với cuộc sống có chỗ khác nhau. Nghệ thuật
gia đối với sự nhiệt tâm yêu cuộc sống vẫn thủy chung ở tâm thái nhi
đồng, gọi tắt là “đồng tâm”. Do sự đồng tâm mà đối với nhiệt tâm yêu
cuộc sống không hề có dính dáng gì đến tạp chất của thói đời, và
do đó tình yêu của nghệ thuật gia càng khoáng đạt và vững chắc lâu
dài, đó là điều nó khác với thường nhân. Dĩ nhiên đó là người đã
trưởng thành nhưng vẫn bảo lưu được tính nhi đồng đáng quí. Cứ theo
ý nghĩa đó mà nói đó là sự chín chắn chân chính.già dặn thói
đời, khuất phục mà phán đoán cuộc đời một cách chín chắn khác
biệt.
Một người già dặn với thói
đời thường có những tình cảm sinh hoạt sâu rộng và chân chính thuần
túy, và chỉ căn cứ vào quan hệ lợi hại thực tế không tách rời với
sự thể nghiệm nhân sinh sung thực của chính bản thân. Sở dĩ chúng tôi
nói sự thành thục chân chính có bao hàm tính nhi đồng, là vì chỉ
có sự bảo lưu tính thiên chân của nhi đồng một cách thành thục, thì
mới có khả năng sinh ra sự sáng tạo tác phẩm nghệ thuật. Ý nghĩa
sáng tạo nghệ thuật là từ trong chu vi của thế giới sinh hoạt bình
thường hằng ngày mà phát hiện được thứ sự vật bị che đậy, từ trong
đối tượng sự vật đó mà phát hiện thành đối tượng siêu việt chân
thực, và trong sự phát hiện ấy lại đạt được nẻo đường tình cảm đã
trải qua. Xung quanh thế giới sự vật tình cảm tồn tại không cái gì
là không ẩn hàm mối quan hệ nhân tính. Và nghệ thuật chính là làm
sáng tỏ sự hoạt động liên hệ đó. Cái tâm thái nhi đồng của nghệ
thuật gia khiến cho sự mẫn cảm của ông ta trước sau tạo thành mối
liên hệ cảm tính của sự vật tồn tại gắn liền với nhân tính.
Thật ra trong bất cứ lãnh vực
nào bao gồm cả lãnh vực nghiên cứu khoa học, phàm cái gì chân chính
do con người sáng tạo đều phải bảo lưu tính “đồng tâm” quí báu, không
có đồng tâm mà có thể sáng tác là điều “bất khả tư nghị”. Đánh
mất sự “đồng tâm” là mất hết năng lực tưởng tượng và dũng khí sáng
tạo; vì tất cả sự sáng tạo cần phải có cái không gian tưởng tượng,
nó là do cái đồng tâm bảo tồn.
Sự nhiệt tâm yêu thương cuộc
sống của nghệ thuật gia, tóm lại có tính chất mộng tưởng, nhưng đó
là một thứ mộng tưởng tự giác đạt đến cao độ. Trong mộng tưởng nghệ
thuật gia yêu cuộc sống, và tình yêu ấy là cuộc sống chân thực và
cao cả. Chính vì lý do đó mà chúng ta mới tránh được sự ngộ nhận,
tức cho rằng những tình cảm mà nghệ thuật gia diễn tả trong tác
phẩm là trực tiếp, nguyên là cảnh xử sự trong cuộc sống thực tế
của ộng ta, tợ hồ những gì ông ta liệt kê trong tác phẩm chính là
sự ghi chép cuộc sống của ông ấy.
Tình cảm sống của nghệ thuật
gia là lực lượng vĩ đại thần kỳ, lực lượng ấy có thể khiến nghệ
thuật gia miêu tả rộng lớn các cuộc sống của mọi người. Một nhà văn
học có thể miêu tả điều mà ông ta chưa từng thể nghiệm hay có thể
chưa hề sống qua, thí dụ một tác gia kiệt xuất văn học lịch sử, có
thể tả được những cuộc chính biến kinh hồn lạc phách trong cung điện
cổ đại; đối với những nhân vật ông khắc hoạch chính xác, tuy rằng
ông chưa bao giờ trải qua cuộc sống ấy. Những hiện tượng đó nhìn qua
đầy vẻ thần bí, nhưng nếu đi sâu vào tình cảm sống của nghệ thuật
gia là hiểu được ngay không có gì là thần bí cả. Trong một thứ tình
cảm sống phong phú và sâu rộng của nghệ thuật gia, thì mắt của ông
ta tức là mắt của mọi người, sự cảm thụ của ông ấy là có đủ tính
chất đau buồn phẩn uất trước mọi tình trạng xã hội. Do đó, ông ta
có thể dựa vào sự thể nghiệm và sống từng trải hữu hạn của bản
thân mà “suy kĩ cập nhân”; từ đó mà từ tư liệu sinh sống của người
khác vẫn nắm được sức cảm thụ sâu xa.
II- Trong nghệ thuật truyền
thống nghệ thuật gia vẫn có đươc sự tu dưỡng. Nếu không có được sự
tu dưỡng đó thì sự xung động biểu hiện vĩnh viễn không thể nào
chuyển hóa thành xung động sáng tác. Xung động sáng tác là một thứ
dự cảm ý tượng thẩm mỹ sắp được đưa vào sáng tác. Thứ dự cảm ấy
chỉ có nơi nghệ thuật gia xuyên qua nghệ thuật truyền thống. Nghệ
thuật gia trường kì tu dưỡng mới thu hoạch được sự hình thành năng
lực dự cảm. Nếu chúng ta chỉ căn cứ vào sự khích động của tình cảm
mà nghĩ đến việc làm một bài thơ, mà không dựa vào cái gì thì đó
chỉ là một thứ không tưởng chủ quan mà thôi. Chỉ có dựa vào mối
liên hệ đến thi ca truyền thống mới
có thể dựng nên một thứ kinh nghiệm, thì sự xung động của chúng ta
mới có hiệu quả thực tế, là nhắm vào hướng nghệ thuật thực tiển.
Sự tu dưỡng của nghệ thuật
gia, nói cho cùng chỉ là sự thừa tập một thứ nghệ thuật truyền
thống, thông qua thứ truyền thống ấy mà nhà nghệ thuật đạt được năng
lực cơ bản và phương thức của sự trần thuật tổng hợp; ông ta có thể
dự tri và đem bộ phận tình cảm rót vào hình ảnh sinh động cụ thể mà
sinh ra thị vực nội tại trong tác phẩm.
Chỉ căn cứ vào điểm đó,
chúng ta cũng đủ lí do để nhấn mạnh đến sự quan trọng của nghệ
thuật truyền thống; nếu không có nghệ thuật truyền thống thì sự
hình thành xung động sáng tác chân chính đều không sao có được.
Tiếp theo là Vấn đề linh cảm…
------------------------
* nguồn: tác giả
------------------------
* nguồn: tác giả
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét