Kỳ 66
Trời đất,
những lý luận cao siêu này tới ngày nay cũng khó nhét vào đầu một ông bí thư
huyện ủy huống hồ chị đàn bà mù chữ, kiếm sống bằng chân tay.
“Cũng có
buổi, anh kể chuyện Liên bang xô viết, cả người kể lẫn người nghe đều thả trí
tưởng tượng bay tới cái đất nước xa xôi mà họ chưa từng thấy bao giờ nhưng lúc
này lại gần gũi nhất với mơ ước của họ…”.
Vẽ ra
“thiên đàng hạ giới” ở Liên xô xa xôi làm ‘bánh vẽ’ kích động người dân
làm cách mạng là một thủ đoạn chính trị” quen thuộc của những người cộng sản từ
khi còn trong bóng tối. Và tất nhiên nhắm mắt tin theo dễ dàng chỉ những người
“thất học”, đầu óc đơn giản như chị Gái, còn trí thức thành phố thì khó. Quả
nhiên “Qua mấy tháng, Khắc định tìm một người giao thông thay chị Gái và
giao cho chị nắm hẳn mấy huyện ngoại thành rồi sẽ đưa chị vào thành ủy…”.
Nhà văn
Nguyễn Đình Thi quả đã dựng nên một chân dung cán bộ vượt cả những hình
dung thông thường. Hóa ra để trở thành cán bộ lãnh đạo cỡ thành ủy, một chị nhà
quê thất học chỉ cần tối ra vườn tối cán bộ “lầm rầm” giảng chính trị để rồi
vài tháng sau đã lãnh đạo cả mấy huyện ngoại hành.
Vậy mới
biết “chuyên môn” làm nghề “cách mạng chuyên nghiệp” thực ra chẳng có gì ghê
gớm, chỉ qua vài tháng nghe gỉ tai là “nghiệp vụ tay nghề” đã thành thạo. Thực
ra vốn liếng kiến thức của mấy ông cán bộ chuyên nghiệp như Khắc, Lê, Cảnh…cũng
chỉ sơ sài có thế. Bởi lẽ cái nguồn tri thức để bồi bổ cho học vấn
của mấy ông quẩn quanh chỉ vài cuốn sách. Dưới đây là gói sách ông Khắc đã chôn
ngoài vườn sau nhà, nay nhờ cô em gái đào lên để đưa cho anh cán bộ tên Cảnh:
“Lênin: Nhà
nước và cách mạng – Lênin: Bệnh ấu trĩ của chủ nghĩa cộng sản. Angghen:
Ông Đuyrinh làm đảo lộn khoa học. Mác và Angghen: Tuyên ngôn của Đảng cộng sản
- Xtalin: Những nguyên lý của chủ nghĩa Lênin - Các Mác: Tư bản – Quyển thứ
nhất - Lênin… Hai chiến thuật…”.
Tất cả kho
lý luận chỉ có thế, toàn những lý thuyết xa của mấy ông rậm râu mãi bên kia bán
cầu, xa lạ, chẳng dính dáng gì tới mấy bác nhà quê An Nam vốn bị tây đá đít thì
cùng lắm chửi thầm trong bụng. Ấy thế nhưng nó lại là của báu, sách gối đầu
giường của mấy anh cán bộ cộng sản.
“Tay anh cán bộ vẫn giở nhanh những cuốn sách giấy đã
vàng và còn ẩm hơi đất. Cánh mũi phập phồng hít cái mùi mốc nhạt nhạt phảng phất
từ những trang giấy bay lên. Đôi mắt anh to và sáng ngước nhìn Quyên như thầm
thốt lên: Sao ở đây lại có cái kho tàng quý như thế này. Đây là ánh sáng mà bao nhiêu
người lần mò trong đêm tối đang đi tìm, đây là cơm là áo, đây là thuốc súng sẽ
làm nổ cái xã hội tàn ác và nhơ bẩn này cho mọc lên một cuộc đời mới…”.
Thật đáng
lo những cuốn kinh Coran cách mạng cao siêu này làm sao chui được vào đầu mấy
bác nông dân An Nam vốn quen ứng xử bằng những kinh nghiệm thực tiễn qua ca dao
tục ngữ lưu truyền đời này sang đời kia chứ chẳng phải do những giáo lý trừu
tượng. Chẳng hiểu bằng cách nào những người cộng sản có thể “quán triệt” cho
những quần chúng thất học như chị Gái, cô An, cái Xoan, anh Côi…hiểu được thế
nào là quy luật tất yếu, là thặng dư giá trị, là chiến lược chiến thuật… những
khái niệm cao siêu với ngay bản thân các cán bộ.
Vậy các nhà
cách mạng mác xít Việt Nam có thực học được và thực hiện được lý thuyết của chủ
nghĩa Mác – Lênin, hay chỉ vớt được cái váng của nó qua một số tài liệu biên dịch
sơ sài hoặc lược thuật đơn giản cho phù hợp với đại chúng.
Và thắng
lợi của họ liệu có phải là sự toàn thắng của tư tưởng Mác - Lênine
hay chỉ là vận dụng “tài tình” các “thủ đoạn chính trị” trong đó bạo lực là
phương tiện hàng đầu để giải quyết mọi vấn nạn trên đời bất chấp sinh mạng cả
chục triệu con người, tạo nên một bi kịch vĩ đại là tát cạn biển Đông chỉ nhận
được về một…giọt nước mắt. Thay vì đánh thắng “hai đế quốc to”, người Thái
Lan đã khôn khéo tránh được hai cuộc chiến, và như vậy phải chăng họ kém “vinh
quang” hơn người Việt Nam? Cái ý nghĩa khách quan của “Vỡ bờ” quả thực đã phản
lại chính tác giả trong mưu toan dùng nghệ thuật tiểu thuyết làm sai lệch sự
thực của lịch sử.
Một trong
những hoạt động cốt lõi của ông cán bộ Đảng cao cấp Khắc là in ấn và tán phát
tài liệu tuyên truyền cộng sản. Nào “bản Tuyên cáo quốc dân” của thành
ủy Hải phòng trong một đêm đã được rải và dán ở các khu phố nội thành báo tin
cho nhân dân biết Đảng vẫn có mặt và kêu gọi chống phát xít, chống chiến
tranh đế quốc…” nào “ tờ báo Tia Lửa cơ quan của Đảng cộng sản vùng
biên ra số đặc biệt bốn trang, in 700 số, trên trang nhất có vẽ hình Lênin…” rồi “những
tài liệu nhỏ tóm tắt chủ nghĩa Lênin cùng với mấy nghìn truyền đơn bươm bướm…”.
Cả một khối
lượng tài liệu lớn như vậy một mình Khắc làm sao mà xoay xở?
Trước hết ông
“tuyên truyền được một anh thợ in tên Lập”. Thế còn xưởng in? Câu chuyện ông
nhà văn đưa ra có thể coi là là một “huyền thoại” theo kiểu “tay không bắt
giặc, biến không thành có, biến khó thành dễ” quen thuộc của các nhà tuyên
truyền cách mạng.
Để tìm địa
điểm in, Khắc để ý tới ngôi nhà nhỏ của anh thợ cạo tên Kênh. Thoạt đầu “Khắc
bắt đầu chú ý đến Kênh vì thấy ở cái hòm thợ cạo, khi mở ra, bên trong nắp có
dán một tấm bản đồ thế giới mà chỗ Liên xô lại tô màu đỏ”. Yêu Liên xô vậy
chắc phải là người ủng hộ cộng sản, chắc có thể bắt quen làm người “của mình”.
Chỉ một câu
ca ngợi đất nước Liên xô, anh thợ cạo đã được cách mạng tin ngay và chọn ngôi
nhà nhỏ xíu của anh làm Xưởng in bí mật. Cả xưởng chỉ có anh thợ in tên Lập với
“hòn đá, hai cái ru lô, mấy hộp mực in và cả một bát chữ…”. Người và
phương tiện in ấn chỉ có thế mà in ra nào báo, nào sách, nào truyền đơn thì quả
thực chỉ những người cộng sản trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Thi mới làm nổi.
Các nhà văn
cộng sản thường đối lập tình yêu mà họ coi là “hạnh phúc cá nhân” với “sự
nghiệp cách mạng” và kết cuộc chiến sĩ cộng sản bao giờ cũng hy sinh tình yêu
chọn lý tưởng cách mạng. Tuy nhiên cái “đạo đức khắc nghiệt” này chỉ có hiệu lực
vào những năm đầu đi theo cách mạng, còn vào thời kỳ những năm 1970 Nguyễn
Đình Thi viết “Vỡ bờ”, nếu “nhăm nhăm gạt bỏ tình riêng mưu hạnh phúc chung”
vậy e rằng bị chê là “công thức”, biến người cộng sản thành người máy không
tim, bởi vậy ông nhà văn mới sắp xếp cho anh cán bộ cộng sản Khắc trong
một lần gặp gỡ An, em Gái đã không cầm được lòng, đã vượt rào đạo đức cách
mạng “ăn nằm với cô trong suốt một ngày”. Rủi thay, ngay sau cái ngày tràn trề
hạnh phúc đó, Khắc đi gặp một cơ sở cách mạng, bị chỉ điểm và bị bắt.
Tất nhiên
để bù lại “khuyết điểm sinh hoạt” hủ hóa với em gái cơ sở cách mạng, ông nhà
văn phải đề cao hết mức ý chí bất khuất của Khắc trước mọi đòn tra tấn dã man
của mật thám Pháp nhằm làm phong phú và sinh động chân dung người anh hùng cộng
sản. Đó là thủ pháp đen trắng (“contrast”) thường thấy trong tiểu thuyết hiện
thực xã hội chủ nghĩa; khi muốn làm bật tính cách dũng cảm của nhân vật anh
hùng, các nhà văn thường cho anh ta mắc tí tí khuyết điểm trong sinh hoạt như “văng
tục”, “nhớ mẹ quá trốn về một buổi”…
KỲ 67
“Sau hơn
chục trận tra tấn chết đi sống lại, Khắc đã yếu quá, không thể đứng lên được.
Hai ngón tay cái bị dây cứa gần đứt hết thịt, vào đến tận xương, sưng tấy lên
đau buốt suốt ngày đêm…”.
Bị tan nát
thân thể, thập tử nhất sinh vậy nhưng Khắc nhất định không khai nửa lời thì
cũng còn có thể chấp nhận là có thật được, nhưng không hiểu sao khi bị
khiêng về xà lim, anh vẫn còn đủ sức “giác ngộ tư tưởng” cho anh “gác ngục trẻ”
thì mới là truyện thần kỳ.
“Từ hôm đó
anh “xì cút” cứ đến tua gác đêm là không quên mở cửa xà lim cho Khắc ra ngồi
thở chừng mười lăm phút, nửa giờ. Những lúc ấy anh ta thường đứng cạnh nói
chuyện với Khắc. Anh ta có vẻ suy nghĩ, những lúc nghe Khắc nói về đời sống
ở Côn Đảo hoặc kể lại truyện tiểu thuyết “Người mẹ” của Gorki…”.
Chẳng hiểu
sao mật thám Pháp độc ác vậy mà lại bố trí lính gác xà lim hiền lành thế, và cũng
chẳng hiểu sao Khắc bị đánh, tra điện gần chết như vậy vẫn còn đủ sức kể chuyện
tiểu thuyết “Người mẹ” của nhà văn Liên xô mới tài. Rồi một anh bạn tù tên
là Mầm đưa nắm cơm tù vào, Khắc tranh thủ lên lớp:
“Anh bây
giờ là đi vào con đường cách mạng rồi chứ còn gì nữa. Muốn làm cách mạng thì
phải học. Anh học đọc, học viết đi. Nhờ anh em biết chữ bảo cho. Tối nay, lúc
nào anh vào đây, tôi nói chuyện về cách mạng cho mà nghe…”.
Thật cứ như
Khắc có phép thần thông, luyện công trị thương tới mức thượng thừa, chỉ trong
khoảnh khắc anh đã từ cõi chết trở về, không những hồi phục sức lực, vượt qua
đau đớn mà còn kể chuyện, ca hát và cả lên lớp chính trị nữa.
Cứ “bốc
phét” như thế ông nhà văn quên bẵng đi rằng tính chân thực mới là giá trị hàng
đầu của nghệ thuật của tiểu thuyết.
Không giống
cán bộ cộng sản sau một thời gian tù đầy đều được trở về và còn sống cho tới
tận ngày nay với bao đặc quyền đặc lợi, sau khi bị bắt ở Hải Phòng, Khắc được
đưa về Hà Nội tỏ rõ khí phách trước quân thù:
“Tôi không
có gì để nói thêm với ông cả. Ở hàng ngũ cách mạng, cũng có một vài kẻ hèn nhát
hoặc phản bội. Nhưng các ông đừng lầm tưởng như vậy là các ông thắng. Chúng tôi
là đảng viên cộng sản, chủ nghĩa chúng tôi cho chúng tôi thấy rõ tương lai. Các
ông sẽ không còn, nhưng đất nước chúng tôi sẽ độc lập, chủ nghĩa cộng sản sẽ
được thực hiện vì đó là mong muốn của hàng triệu người”.
Và ông đã
hy sinh thật anh dũng:
“Lanéc cúi
xuống, bấm đèn pin vào mặt Khắc Trong
vệt sáng, hiện rõ những đám máu ộc từ miệng Khắc chảy vòng quanh đầu anh. Máu
đỏ sẫm nóng hổi rỏ giọt từ trên sàn gỗ xuống nền xi măng. Khắc đã tắt thở…”.
Thật tiếc
cho những người đã đổ máu hy sinh cho lý tưởng như Khắc, bởi lẽ nửa thế kỷ sau,
“đất nước quả có độc lập” nhưng “chủ nghĩa cộng sản” thì vĩnh viễn chẳng bao
giờ được thực hiện và buồn thay sự rũ ra khỏi nó mới chính là mong muốn của
hàng triệu người. Vào những năm 1990, khi cả khối xã hội chủ nghĩa Liên xô và
Đông Âu đã sụp đổ, “cộng sản chỉ còn như một thiên đàng đã mất” trong
con mắt mọi người, kể cả Nguyễn Đình Thi, vậy mà ông nhà văn còn viết được
những dòng “tin tưởng” như trên thì quả thực ông tự lừa dối chính ông và lừa
dối cả mọi người.
Cái còn để
lại sau khi Khắc chết không phải là gương hy sinh, bất khuất mà chính là… hòn
máu của anh trong bụng An - cô người yêu anh đã chung sống chỉ một lần duy nhất
trong đời:
“An tự
nhiên sờ lên bụng. Một cái gì rất lạ lẫm. An cảm động, rung hết người. Đúng
rồi. Đến hôm nay đã quá ngày gần một tháng rồi. An đã có mang…”.
Sau cái
chết của người cộng sản, phong trào cách mạng cũng như nội dung của cuốn tiểu
thuyết chùng hẳn xuống, mất hẳn cái mạch liên tục, sôi nổi trước đó. Một phần
năm còn lại của cuốn sách chỉ còn diễn tả những nhân vật “quần chúng” mà trước
đó vì mải mê tập trung vào nhân vật cán bộ cộng sản, ông nhà văn đã buông lửng
chúng.
Trước hết
là thầy giáo Hội được nói tới khá nhiều ở đầu truyện. Thày giáo Hội giống y
chang thầy giáo Thứ trong “Sống Mòn” của Nam Cao. Cũng mòn mỏi trong một trường
tư thục rồi bị thất nghiệp vì chiến tranh xảy tới, cũng nặng gánh vợ con trong
thời buổi gạo châu củi quế mà rời tấm bảng đen với cục phấn trắng ra chẳng còn
biết làm gì:
“Hội chẳng biết
làm gì để nuôi lấy thân mình, chứ đừng nói gì đến nuôi vợ con. Hội lại sắp ăn
bám vào Thảo, Thảo đã khổ đến như vậy rồi, mà sẽ còn phải nhịn ăn nhịn mặc nữa
và Thảo với cả con Hiền sẽ lại gò lưng xay lúa, giã gạo, sàng sẩy, chắt bóp bán
từng bơ cám, từng nải chuối xanh, từng cây kim sợi chỉ để lo lấy bữa cơm bữa
cháo…”.
Tuy nhiên
“giáo Hội” của Nguyễn Đình Thi có khá hơn “giáo Thứ” của Nam Cao đôi chút ở chỗ
thất nghiệp trở về làng xoay ra…viết văn:
“Thế là
ngày ngày anh ngồi trong cái chái đầu nhà, vừa ôm cái tí Vân, vừa viết giấu
giếm. À, nếu viết như các ông Vichto Huygô hay là Tolstôi thì chẳng dám
màng, chứ còn như những chuyện “chàng chàng nàng nàng” lâm li giả dối và
chán ngoét đầy dẫy trên báo sách thì làm gì chàng chẳng viết được?”.
Hóa ra cái
khả năng tiên tri, thấu thị, dự báo của nhà văn Nguyễn Đình Thi thật đáng nể,
bởi lẽ cho tới tận bây giờ, thời đại bùng nổ của cách mạng tin học - cái
tình trạng “lâm li giả dối và chán ngoét đầy dẫy trên báo sách” vẫn
còn tiếp diễn dài dài trên cả nước.
Nhân vật
tiếp theo được nhắc lại là hoạ sĩ Tư vốn là người yêu của cô Phượng đài các, vợ
của tri huyện Môn. Nếu như hoạ sĩ Thanh Tùng hái ra tiền bằng những bức tranh
thời thượng thì hoạ sĩ Tư cứ nghèo rớt mồng tơi “hàng ngày phải tính từng hào,
từng xu và nhịn tất cả mọi thứ làm thế nào giành giật với cuộc sống từng bữa ăn,
từng thức vải, hộp màu để vẽ…”. Người còn quan tâm tới Tư chỉ còn có cô gái
điếm tên Bích, mua cốm tới cho anh ăn, có nhạc sĩ Toàn, sau khi cô gái Nga Nina
bỏ anh ra đi, anh năng tìm tới hoạ sĩ Tư rủ rê: “Tao chịu mày, không còn biết
gì đến chuyện gì ngoài cái giá vẽ của mày. Ngoài phố người ta đã nhớn nhác cả
lên. Mày không biết chính phủ Pêtanh vừa ký với Mãtuôka ở Tokyo một hiệp ước về Đông Dương rồi à? “Quân
đội Nhật bản ở Quảng Tây bây giờ đang đòi vào bắc kỳ ngay. Có thể nổ súng không
chừng…”.
Nghe lời
nhạc sĩ Toàn, hoạ sĩ Tư tạm rời cái giá vẽ để lang thang xuống phố. và thế rồi
“Hình ảnh người đàn bà bế con ngồi trên bọc chăn màn với cô gái đeo cái tay nải
nâu ở bến xe điện lại hiện lên trước mặt Tư. Anh phải vẽ bức tranh ấy…”. Sau
chuyến “đi thực tế” bến xe, bến tàu, nhà ga… Tư bỗng cảm thấy “Một cái gì đây
sẽ đến… Hôm nay Tư đã thấy phía bên kia (quân Pháp) đang đổ nhào và tan rã như
thế nào?”. Quân hồi vô phèng…” - những con mắt len lét và hằn học của đám
lính bị thương ở Lạng Sơn về. Cái cảnh tây đầm chí chóe trên con tàu đi Sài Gòn.
Một cái gì đây sẽ đến…”.
Một cái gì
sẽ đến, tuy nhà văn không nói toạc ra, nhưng ai cũng hiểu ông muốn nói tới… cách
mạng. Một cuộc cách mạng “long trời lở đất” đang tới mà ngay đến anh họa sĩ
suốt ngày ngơ ngẩn với màu với hình cũng đã cảm nhận thấy.
Cái thành
phần rồi đây sẽ tan rã khi cách mạng nổ ra – tầng lớp quan lại, địa chủ, tư
sản, thượng lưu… cũng được tác giả nhắc tới tất cả những “xấu xa, bệnh tật” của
nó. Nào cậu Tường, con trai nghị Khanh, cậu Thúc, con trai chủ đồn điền cưỡng
dâm cô thôn nữ tên Thơm; nào cô Nguyệt, con gái nghị Khanh, bị đám con quan đẩy
vào buồng, “đánh táp lô” đến mang bầu phải đi nạo, nào nghị Khanh nẫng vợ bé của
ông bạn Quảng Lợi… Cả một xã hội bốc mùi xú uế đang như con cá nằm trên
thớt chờ cách mạng tới để được hóa kiếp.
(còn tiếp)
--------------------------
* nguồn:
blog nhattuan
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét