- Bác thấy bệnh tình
của Gấm ra sao?
- Bác rất lo. Bác đã
xem hồ sơ bệnh lý của Gấm. Bác thấy tế bào ung thư của Gấm thuộc loại có nhân,
rất khó chữa, vì di căn rất nhanh.
- Nhưng bác sĩ điều
trị nói là sẽ dùng loại thuốc mới nhất của hoá trị liệu. Phương pháp này
tốt chứ?
- Dĩ nhiên là tốt. Bác
biết nói điều này cháu sẽ không vui. Nó làm cháu thất vọng và có thành kiến xấu
với người thầy thuốc. Nhưng nghe bác nói đây: Trong nghề y, người ta quan niệm,
nếu nói dối mà có lợi cho một người nào thì nó là một liều thuốc bổ sung. Đừng
bao giờ để người bệnh đầu hàng và luôn giúp họ bám vào một tia hy vọng dù
mỏng manh nhất.
- Bác nói sao? Con
chưa hiểu hết ý.
- Khi y học không biết
làm gì, họ làm bận rộn người bệnh bằng những phù phép. Lý do là để tranh thủ
thời gian và khoả lấp sự lúng túng; nhưng điều kỳ lạ là bệnh nhân lại cảm
thấy đỡ hơn. Nói trắng ra đó là một thứ tự kỷ ám thị, nhờ nó mà khi uống một ly
nước từ tay một người đạo mạo mặc áo blu trắng, hay từ lão thầy pháp mặc áo đỏ
khăn đen, cầm bó nhang vẽ bùa trong không khí, bệnh nhân tưởng được cấp một
liều thuốc thánh, nên uống vào sẽ có một sự hưng phấn mà họ tưởng là hiệu quả.
- Theo ý bác thì…
- Bác muốn nói là có
những trò tầm phào, những viên thuốc vô ích, công dụng chưa rõ ràng hay chưa
được chứng minh… nhưng mục đích là làm trí óc bệnh nhân bận rộn, tạo hy vọng và
xoá nỗi sợ.
Điều quan trọng là con
bệnh thấy “đỡ” hơn. Kết quả “tốt” hơn. Giới y khoa gọi đó là hiệu ứng
placebo.
- Nhưng dạo này con
thấy sức khoẻ của Gấm đã khá hơn. Hy vọng thuốc đã bắt đầu công hiệu.
- Tại cái tâm con muốn
nhìn thấy thế. Bác nhìn thấy các tĩnh mạch trên cánh tay của Gấm bị phá nát vì
những mũi kim truyền thuốc, lòng bác đau lắm. Nhưng yếu tố tâm lý rất cần thiết
để giúp người bệnh kiên nhẫn và kéo dài sự sống.
- Trời ơi! Nghĩa là…
- Con hiểu rồi
đấy. Nhưng phải tuyệt đối bình tĩnh và đừng nói cho Gấm biết. Hãy ở gần và an
ủi Gấm.
- Vậy bác nghĩ là…
-Nghĩ gì ư? Con không
thấy các móng tay của Gấm bắt đầu xù xì sao? Con không thấy giọng nó khàn
khàn, nhịp thở bình thường nhưng có lúc như bị chèn ép sao? Trên
cánh tay bắt đầu xuất hiện những vết bầm. Bác sợ là thuốc chỉ gây tác dụng phụ
mà chẳng hiệu quả. Hay hiệu quả không cao. Nếu vậy thì khối u sẽ di căn
lên màng phổi. Rồi lên não. Nó sẽ làm Gấm chóng mặt, xây xẩm, dễ té ngã. Không
phải là bác sĩ chuyên về ung bướu, nhưng kinh nghiệm cho bác biết là tình trạng
của Gấm rất đáng lo.
- Thế bác nghĩ rằng…
- Bác không nghĩ gì
cả. Bác không biết được ý muốn của định mệnh. Bác sẽ không dám nói gì hết. Mà
thôi, đủ rồi. Bác đã nói quá nhiều. Đã tán gẫu nhiều hơn những điều cần
thiết. Bây giờ, bác phải đi đây.
Hoảng hồn.Tôi đi giật
lùi và vội bước ra khỏi nhà.
Khi tôi đóng lại cánh
cửa sau lưng thì chút tự chủ cuối cùng cũng biến mất.Như một con thú bị thương,
sự khiếp hãi gầm lên trong tôi như một phản ứng cuối cùng trước khi ngã vật.
Gần một tháng nay tôi đã phải đến viện ung bướu để truyền thuốc mỗi tuần
ba lần. Tôi đã vật vã và chịu đựng những cơn đau, những trận nôn nửa. Thốc
tháo. Người ta nói giúp tôi khỏi bệnh. Tôi đã chấp nhận sử dụng loại thuốc tân
tiến, phát minh mới nhất của y học. Nhưng tình trạng của tôi đâu cần đến
những thứ đó. Tôi đã chịu những sự hành hạ không cần thiết.
Tuyệt vọng, tôi
cầm chai thuốc trong túi xách ném vào vách tường.
Đà ném quá mạnh làm
tôi mất thăng bằng.
Mắt tôi hoa lên,
chuệnh choạng bước thêm vài bước, dang hai tay vịn vào tường mới có thể bước
xuống những bậc thang. Đi đâu bây giờ? Tôi không biết. Nhà thì không thể vào
còn nếu chạy loanh quanh ngoài đường thì tôi biết mình sẽ gục ngã. Đến nằm nhà
bạn bè ư? Tôi không thể lê cái xác vô hồn này đến ăn vạ nhà ai… Suy nghĩ… Cuối
cùng tôi lấy xe chạy vào một nhà trọ, thuê một phòng để nằm tạm vài giờ.
Khi mở được cửa, tôi
nằm vật xuống giường như một tảng đá. Ý thức của tôi lúc đó bị rối loạn và ruột
gan chỉ thấy một nỗi đau, như vừa bị một miếng đòn thâm hiểm mà định mệnh đã
giáng trúng. Hy vọng cuối cùng của tôi đã bị đạp đổ. Tôi nằm úp mặt vào gối.
Tôi muốn kiềm chế hơi thở để bình tĩnh lại. Nhưng những kiến thức về thiền chẳng
giúp gì được. Trạng thái đóng cửa với ngoại cảnh đã thất bại. Thay vào đó, tôi
cảm thấy có một sức ép lên hai bên thái dương. Nhẹ, nhưng sau mỗi
đợt co thắt, nó làm tôi tê dại. Tôi muốn hét lên. Tôi muốn thét gào nỗi sợ với
ai đó, hay đập phá mọi thứ xung quanh.
Áp lực của cõi sống
như càng lúc càng đè nặng lên ngực.
Lúc cơn đau dịu đi,
tôi cố gắng thu hết tàn lực để suy nghĩ. Thế nhưng đầu óc cứ trống không. Có
một cái gì đó lờ mờ làm đầu óc tôi càng lúc càng mụ mị. Bốn bức tường của
căn phòng như lắc lư dịch chuyển. Chúng khép dần như bắt vít, thu hẹp khoảng
không. Không gian dồn ép, vây chặt lấy tôi, khủng khiếp như bị nhốt trong một
chiếc quan tài bằng kính. Xung quanh tôi chỉ có sự yên lặng của huyệt mộ. “Tôi
đã làm gì? Tại sao số phận lại khắc nghiệt với tôi?”. Không có trả lời. Tôi chỉ
thấy sự cô đơn của chính bản thân mình trong thế giới này. Tôi cảm giác mình
chỉ còn là một mẩu thể xác đang thoi thóp, cơ thể còn ấm nóng nhưng không còn
một chút sinh lực. Cái chết dữ tợn đang chậm chạp bước đến, các tế bào rồi sẽ
lần lượt chết vì trái chôm chôm mỗi lúc một phình to và cô Gấm sẽ nằm bất động,
ý thức, chờ đến lúc trái tim hoàn toàn ngừng đập.
Tôi nằm vật trên
giường, hai hàm răng cắn chặt vào mép áo để khỏi phải hét lên. Vì cuồng điên
và bất lực.
Tâm trí tôi mờ ảo như
một đám sương mù. Hai bên thái dương đau nhức, tôi thiếp đi trong một cơn mơ
màng.
Giấc ngủ đã đến. Nhưng
có lẽ đó không phải là giấc ngủ mà là một sự mê mệt, một sự quên lãng hoàn
toàn. Từ trước đến nay chưa bao giờ tiềm thức của tôi lại chìm đắm trong một sự
lãng quên đến thế, khó khăn lắm tôi mới có thể kéo dần tiềm thức trở về với
thực tại, từng tí, từng tí một. Khi tỉnh dậy, tri giác của tôi vẫn không sao
xác định được thời gian. Chỉ mơ hồ hiểu là trời sắp về chiều. Và tiếp theo cảm
giác đó là nỗi sợ hãi.
Nó đã bám theo tôi
ngay cả trong giấc ngủ.
Sự im lặng trong căn
phòng bỗng làm tôi khó chịu. Tôi ngồi bật dậy mở toang cửa sổ. Những khối tháp
bằng ciment án mất tầm nhìn. Có lúc tôi tưởng như tất cả những cao ốc đang sừng
sững mọc lên trong thành phố này đang ngạo nghễ đè lên ngực mình. Cùng với nó
là khói bụi, tường vách, ban-công, nóc nhà sắt thép đang đổ ụp. Tôi có cảm giác
là thân thể mình mỗi lúc mỗi cứng đờ, và có lúc, trong cơn sợ hãi điên cuồng,
tôi muốn khóc rống lên làm náo động cả cái thế giới này.
Không. Cần phải ra
khỏi nơi đây. Phải đi ngay, đi ngay… nhưng trời đất bao la thế này mà tôi chẳng
biết về đâu. Tôi không còn một chỗ nào để được yên thân. Tuy nhiên tôi hiểu là
mình cần phải đi khỏi đây, cần phải thoát khỏi sự im lặng khủng khiếp này.
Và bất thình lình, tôi
ngồi bật dậy lao ra hành lang.
Sau lưng là cánh cửa
mở toang hoác. Và trong sự ngạc nhiên của nhân viên phòng nghỉ tôi thanh toán
tiền phòng trong vội vã, lấy xe rồi phóng ra ngoài.
Tôi chạy trên đường đờ
đẫn như một kẻ mộng du. Những hình ảnh và khuôn mặt bềnh bồng quanh mình như
những bóng ma. Tôi nhìn mọi người, và có lẽ mọi người cũng nhìn lại tôi, nhưng
tôi như không thấy gì cả.Tôi không ý thức là mình đang nhìn cái gì. Mình đang
chạy đi đâu. Chỉ có tay lái và tay ga không hiểu bằng cách nào cứ cho xe lao
đi, chạy vun vút trên đường phố.
Một mối quan hệ nào đó
bình thường điều khiển trí óc của tôi giờ đây như bị đứt đoạn. Tôi lái xe mà
như không chủ đích, cứ giữ tay lái và chạy, tiến mãi về phía trước như
muốn bỏ lại nỗi sợ ở phía sau lưng. Có lúc tôi đi bình thường, có lúc tôi như
đứng lại, chỉ có con đường nhựa đang chạy dưới chân. Có lúc mọi vật đứng yên mà
cũng có lúc những cột điện chao đảo, lắc qua lắc lại… và tôi tưởng mình sẽ ngã.
Những lúc ấy, theo bản năng tôi cố giữ thăng bằng và chạy chậm...
Phản xạ
đưa tôi chạy về phía cầu Bình Triệu nhưng tôi không về nhà mà
rẽ xe qua Thanh Đa, về hướng Bình Quới.
Đến một góc khuất tôi
dựng xe rồi bước dọc theo bờ sông. Tôi đi rất lâu và khi đã mệt nhoài tôi vẫn
bước tiếp mặc cái mệt rã rời trong cơ bắp. Đi, đi mãi và cuối cùng tôi tìm được
một nơi vắng vẻ và cạnh đó một bãi cỏ xanh. Mới đầu tôi ngồi nhưng chỉ một lát
tôi thả người nằm ngửa ra bất động, hai cánh tay và đôi chân giang ra thành
hình chiếc thập tự trên nền cỏ xanh mềm; Tôi nằm yên và nhắm mắt lại. Sự vĩ đại
của cơn mệt nhọc tự nó đã làm giảm bớt căng thẳng. Nó không cho phép một cảm
giác bất kỳ nào khác ngoài sự dễ chịu khi sự căng thẳng rời dần khỏi các cơ
bắp. Tôi hít thở như lời bác Thuận dạy: “Hít
vào sự bình an. Thở ra, thãi những lo âu, sợ hãi hay căng thẳng”.
Nằm yên như thế một
đỗi lâu tôi thấy người dễ chịu. Tôi chuyển thế nằm sấp, chống hai khuỷu tay ra
phía trước, hai bàn tay chống lấy cằm rồi ngắm nghía những đường vân trên những
chiếc lá nhỏ nằm trước mặt mình. Có lúc tôi ngắt một bông hoa dại, làm những
sợi cỏ đung đưa, run rẩy. Nhìn chán, tôi xoay người nằm ngửa, cảm nhận hơi ấm
của thảm cỏ dưới lưng mình. Trên cành cây, những chiếc lá có thứ màu xanh mượt
mà khác hẳn những chiếc lá ửng vàng bám đầy bụi bặm trong thành phố. Các lá cây
bất động treo trên nền trời vàng chanh bóng loáng. Vẻ xanh xao của bầu trời
càng làm cho ánh sáng chiều yếu dần. Tôi ấn mạnh lưng xuống đất và chợt cảm
thấy một sự khoan khoái nhè nhẹ trong các cơ bắp. Nằm một lát tôi chống tay
đứng dậy, đi dọc bờ sông, nhìn bóng mây phản chiếu trên mặt nước. Có hai
bầu trời. Một trên cao. Một dưới thấp. Đường chân trời xa tắp, không biết đâu
là giới hạn.
Chiều xuống. Tôi nhìn
những mảng lục bình đang bập bềnh trôi. Nắng đã tắt gần hết; Chỉ còn sót lại
một mảng nắng trên đọt cây cao. Lòng tôi tự nhiên chùng xuống. Tôi chưa hiểu
tại sao bên một dòng sông… trong cái thời khắc của buổi chiều tàn lại gây xúc
động tâm hồn mình đến thế. Có lẽ giữa phút giao hoà của ngày và đêm, sự phối
hợp của nắng vàng và bóng tối đang choàng lên tạo vật một sắc màu lung linh
huyền bí.
Bầu trời chiếu
sáng mờ mờ, xanh và rộng như một đại dương phẳng lặng. Bên góc trái còn
có một mảnh trăng lưỡi liềm, lơ lửng như treo giữa mênh mông thăm thẳm.
Gió nhè nhẹ thổi. Trời
đang trong bỗng mây trắng ở đâu chậm chạp kéo về, bay từ hướng đông nam
qua tây bắc. Những tầng mây, mới đầu lẻ tẻ, thưa thớt nhưng chỉ trong chốc lát
chúng kết hợp thành nhiều khối, rồi đột ngột hiện ra như muôn
nghìn đền đài đồ sộ; mỗi khối có kích thước lớn hơn ức vạn ngôi đền thông
thường mà con người xây dựng xưa nay. Nó có những đỉnh cao như toà tháp, những
mái bằng nhô cao, vạt thấp, những hình trôn ốc được chạm khắc, đường nét
đậm nhạt uyển chuyển giữa trời… hình ảnh xem giống Angkor-wat, mà còn vĩ đại
hơn Angkor-wat hàng trăm hàng vạn lần.
Nhưng có lẽ tôi không
nên gọi nó là Angkor-wat, mà phải gọi là đại vực, là Grand
Canyon vĩ đại và đồ sộ.
Một bức tranh thiên
nhiên kỳ tuyệt hiện lên sừng sững giữa trời cao.
Xung quanh khối tháp
bên phải có ánh nắng chiếu vào, do một khúc xạ và phản chiếu kỳ ảo, ánh sáng
biến thành những đường viền màu trắng, làm những đền đài kia càng thêm sáng
chói và rực rỡ.
Màu sắc của đại
vực lộng lẫy và biến hoá vô lường.
Tôi nhìn sững cảnh sắc
kỳ lạ đó như kẻ bị thôi miên.
Thời khắc như dừng
lại, và cảnh đền đài đồ sộ hiện giữa không trung kéo dài đâu chừng
vài phút.
Bởi, sau mốc thời gian
đó, một điều kỳ lạ đã xảy ra.
Gió!
Bầu trời chuyển động.
Gió nổi lên. Mỗi lúc mỗi mạnh. Những khối mây vần vũ, dịch chuyển, đổi ngôi. Có
một khối tháp lớn bay qua, che khuất, như va chạm vào ngôi đền làm
tường thành ập xuống. Trên thinh không những vân sóng đồng tâm, tầng tầng lớp
lớp loang ra, lan rộng.
Theo làn sóng những
đền đài, miếu mạo bị chấn động, run rẩy, tự dát mỏng, biến dạng rồi chìm
đi. Mất hút.
Cảnh tự xoá diễn ra
chậm chạp. Trịnh trọng và thần bí như tuân theo một nghi lễ trang nghiêm.
Bất ngờ hiện ra, đột
ngột biến mất.
Tất cả những hình
tượng đó chợt làm tôi thấy rõ sự sụp đổ; như sự tan vỡ của ảo tưởng. Và
ngộ ra sự trần trụi của phù du.
Mọi phiền muộn, lo
toan trong đời đều điên rồ, vô nghĩa.
Rồi cuốn hút trong
chấn động của vân sóng, những lo âu, phiền muộn bỗng chốc tiêu tan; Tình yêu,
khổ đau, bệnh tật, hạnh phúc, tử sinh chỉ là hư ảo.
Tất cả đều bị xoá mờ.
Trên bầu trời phút
chốc chỉ còn một màu mây xám.
Những tảng mây
không còn hình thù gì rõ nét.
Dưới ánh hoàng hôn,
lác đác có vài khối mây riêng lẻ. Có khối vàng vọt nhưng cũng có khối sẫm
đậm màu da cam.
Phần lớn đã tự dát
mỏng và phân tán như muôn nghìn lông ngỗng, vắt vẻo giữa trời.
Dòng sông trước mặt
vẫn đang chảy nhẹ nhàng thoải mái trước mắt tôi. Tiếng nước chảy rì rào. Tôi
đến sát bờ, soi mình trong dòng nước. Tôi nhìn thấy khuôn mặt và mái tóc xoả
dài phản chiếu trên mặt gương. Dường như trong mờ mờ nhân ảnh còn có cái gì của
quá khứ, của hiện tại và của tương lai đang quyện vào nhau. Kiếp trước, kiếp
sau, đời này tiếp nối. Khuôn mặt dừng lại vài giây, như nhìn lại tôi, rồi, bất
chợt một con nước xoáy, bóng ảnh kia tan biến.
Ngay lúc ấy, tôi thấy
một cơn đau, nhói lên giữa ngực. Nhưng tôi chỉ khẽ đặt một bàn tay lên ngực mà
không sợ hãi. Tôi biết rồi sẽ có một cơn đau sung sướng, hiệu quả như một
nhát dao chí mạng, vết thương vỡ mủ, ứa ra… sau đó tất cả sẽ chấm dứt. Và cuối
cùng máu sẽ phọt ra từ hai trái phổi, phù phù rửa hết những đau thương và
bất hạnh.
Đây đó, mây tản mác
thành những mảng đen lấp loáng, như vết dầu loang trên biển.
Chiều đang xuống
nhanh. Mặt trời sắp tắt…
Trích tiểu thuyết
“Bàn tay nhỏ dưới mưa”
(Công ty văn hóa Phương Nam & Nhà xuất bản Hội nhà Văn -2011)
(từ trang 320-327)
hai bàn tay thì đầy
(Đọc Bàn tay nhỏ dưới mưa, tiểu thuyết của
Trương Văn Dân, Nxb Hội Nhà văn, 2011)
Đọc một cuốn tiểu
thuyết dài hơn 400 trang trong bối cảnh đời sống hiện nay quả là một việc không
mấy dễ dàng ngay cả với những người được coi là chuyên tâm nghiên cứu văn học.
Vậy mà tôi đã đọc tiểu thuyết Bàn tay
nhỏ dưới mưa của Trương Văn Dân một cách say sưa, nhiều khi
lén lau nước mắt vì sợ người khác nhìn thấy sự mềm lòng của một người đàn ông
tuổi ngoài sáu mươi vẫn được bạn bè và đồng nghiệp coi là cứng rắn, vững vàng
trong cuộc sống. Cái định đề “Quy luật của nghệ thuật là quy luật của tình cảm”
mà ai đó, lúc nào đó cho rằng “xưa rồi Diễm ơi!”, nay tôi lại thấy thật đúng và
thật tâm đắc.
Một kiếp người như Gấm
– nhân vật chính đứng ra kể chuyện đời mình bằng nhật kí – thật khổ hạnh và bi
ai trong một xã hội mà đôi lúc chúng ta ảo tưởng rằng đã là thiên đường giữa
trần gian. Ở độ tuổi xấp xỉ bốn mươi, trải qua hai đời chồng, có một cô con gái
nhỏ thơ ngây (tên Liên), Gấm mới bắt đầu đi tìm hạnh phúc cho mình. Tìm và gặp,
cuối cùng thì Gấm đã gặp được Anh (làm nghề báo, vợ và con mất trước đó), cùng
một cảnh ngộ, có thể tri âm tri kỉ. Đến bây giờ Gấm mới nhận biết được, thấm
thía được tình yêu và mới thấy “như yêu lần đầu”, mới thấy “hạnh phúc thật ra ở
ngay trong những điều nhỏ nhặt”. Gặp được Anh, Gấm mới “ngộ” ra được nhiều điều
sơ đẳng mà lại như là chân lí của đời sống. Nhưng số phận của Gấm thật éo le và
tột cùng đau đớn. Đúng khi tưởng như nắm giữ được hạnh phúc với người đàn ông
của đời mình (“một nửa” của mỗi con người), thì Gấm lại phát bạo bệnh (bị ung
thư). Tất cả vỡ vụn và sụp đổ tan tành trong con người Gấm. Một lần đã lâu, tôi
có đọc một cuốn tiểu thuyết của nhà văn Đumbatze nhan đề Quy luật của muôn đời, có một ý ngẫm thấy
thú vị: trong đời mỗi người, nên có một lần nằm trong bệnh viện, đó là dịp tốt
nhất để ta suy ngẫm chín chắn về giá trị, ý nghĩa của con người và đời sống.
Lần này Gấm phải đối diện với cái chết, vì thế cũng là lần đầu tiên chị ý thức
được “Tôi là ai? Là con Gấm? Là đứa bé
bị đời bạc đãi, là người con gái trôi sông lạc chợ, bám víu vào những cuộc hôn
nhân, thực chất là bè gỗ mục, chấp chới giữa dòng chảy xiết? Tôi là kết tinh
của sự bất hạnh hay là người phụ nữ được yêu, được vỗ về, che chở để có thể tự
cho mình là người hạnh phúc nhất trần gian? Tôi là một, hay là tất cả những
hình ảnh phản chiếu từ những chiếc gương xung quanh mình do cuộc đời sắp đặt:
tôi phản chiếu thành bóng trên gương và bóng lại phản chiếu lên những tấm gương
khác, tạo thành chuỗi hình ảnh vô cùng vô tận. Phản chiếu của phản chiếu, hình
ảnh của hình ảnh, cùng với tiếng vọng của âm thanh pha lẫn giọng cười, tiếng
khóc?”.Cũng lần đầu tiên, do phải đối mặt với cái chết, Gấm bắt đầu
ý thức được vấn đề “thân và tâm” của một cá thể người. Cái chết của Gấm, đáng
lí là bi đát, nhưng do “ngộ” ra được cái tất yếu, cái vô hạn của cuộc đời và
cái hữu hạn của kiếp người, nên lại “nhẹ tựa lông hồng”. Gấm đã bay vào cõi vô
cùng, để cuối cùng “cát bụi trở về với cát bụi”. Gấm cảm thấy hạnh phúc
vì “Còn tôi, tôi đã về lại với chính
mình. Hòa nhập vào thiên nhiên có lẽ là phần vi diệu nhất trong tất cả những gì
hiện hữu dưới ánh sáng mặt trời”. Như thế là Gấm đã ngộ ra được lẽ
tử sinh, đã ý thức được cái giới hạn vươn lên cõi vô cùng của con người trong
thế giới này.
Lối viết của Trương
Văn Dân trong Bàn tay nhỏ dưới mưa,
thoạt trông có vẻ như rất thật theo cái triết lí “khôn ngoan chẳng lọ thật thà”
của dân gian. Trong phần kết Tro bụi
và Trần gian, nhân vật Anh (xưng Tôi) viết“Câu chuyện mà các bạn đang đọc được viết lại theo
nhật kí của Gấm (…). Qua những trang viết của Gấm, tôi chỉ làm công việc chủ
yếu là sửa vài lỗi chính tả, viết xen vào vài đoạn cho câu chuyện mạch lạc. Còn
phần nội dung và cảm xúc thì tôi cố gắng giữ nguyên, dù đôi khi những ý tưởng
của Gấm mâu thuẫn hay rối rắm, phản ảnh một tâm lí rối ren tất yếu phát sinh từ
những uẩn khúc, sợ hãi, khát khao trong những ngày cuối đời của nàng”.
Tuy được biện minh như thế nhưng độc giả nhận thấy cái thật của câu chuyện
không phải là “thật như đếm”, mà đã được chăm sóc cẩn trọng, được tính toán đến
từng ý, từng đoạn, thậm chí từng câu chữ. Sẽ có người coi sự “dài dòng” là một
nhược điểm của tiểu thuyết này vì nó làm mất thì giờ của độc giả. Đúng là dài,
nhưng dài không phải vì tác giả “độn” vào nhiều thứ, mà vì bản thân câu chuyện
tình, trong trường hợp này, quả thực là miên man bất tận.
Tôi muốn nói đến văn
phong của tiểu thuyết Bàn tay nhỏ dưới
mưa. Lâu nay, khi bàn về tính hấp dẫn của một tác phẩm văn chương,
ta thường nghiêng bàn về giá trị nội dung (về “chuyện” của một tác phẩm văn
xuôi), đôi khi ít chú ý tới “văn chương là nghệ thuật ngôn từ”. Tôi thấy tác
giả là một người có ý thức “làm văn”. Tại sao không?! Nhưng câu
chữ của tác phẩm lại giản dị một lòng yêu đời, yêu người. Đọc kĩ
thấy rõ trước hết những gì được viết ra đều từ một cảm xúc run bật, chín và
mạnh – chính điều đó dẫn dụ độc giả vào câu chuyện, vào các tình huống, tâm
trạng, cảnh ngộ của nhân vật “Rồi vĩnh viễn
yên nghỉ trong vườn địa đàng (…). Gấm như con bướm thoát xác, chỉ để lại vỏ
kén. Còn hồn nàng vút lên trời, như quả pháo thăng thiên. Và tôi tin là Gấm còn
biết rằng, dù nàng đã ra đi nhưng tình yêu thiêng liêng của nàng trong cuộc sống
này không bao giờ mất (…). Giờ thì Gấm đã thành mây. Tôi có cảm giác rằng ngay
lúc cảm thấy mình sắp chết, nàng đã ý thức rất rõ ràng về cái chết của mình.
Nàng đã cảm nhận được sự tái sinh và cũng ý thức được rất rõ sự tái sinh của
mình. Vì Gấm sẽ chờ tôi bên kia thế giới. Để cùng quay lại trần gian”.
Một cái kết không “có
hậu”, nhưng có sao đâu khi cuộc đời không phải lúc nào cũng có hậu, cũng chia
đều may mắn và hạnh phúc cho từng người vì “Tôi kinh hãi nghĩ đến những con thuyền neo bến mà không còn kẻ qua
sông”. Một bạn văn của tôi đã đọc cuốn sách này và có ý cho rằng
tác giả viết như không tính đến kĩ thuật. Đúng như thế. Nhưng phải nói lại
rằng, trong bất cứ nghề gì, khi đã chín, đã sâu, đã tận tâm thì công việc cứ
băng băng như là không cố ý cố gắng, nhưng hiệu quả lại cao, lại bền vững. Thật
ra thì Trương Văn Dân đã thử bút trong truyện ngắn (Hành trang ngày trở lại - Tập truyện ngắn – Nxb Trẻ,
2007), nên ít nhiều có kinh nghiệm viết.
Gần đây tôi có đọc
tiểu thuyết Một bàn tay thì đầy của
Hoàng Việt Hằng (Nxb Phụ nữ, 2010). Nhưng tôi thấy Trương Văn Dân lại có cái tứ
khác “hai bàn tay mới đầy”. Cả cuốn tiểu thuyết là nghệ thuật hoá ý tưởng
sau “Trong cuốn nhật kí, giữa những
trang giấy, tôi còn thấy có một tờ giấy ruột của quyển vở học trò được gấp làm
tư. Khi mở ra, đặt lên bàn, tôi dùng bàn tay vuốt cho thẳng nếp. Trên mặt giấy
có in hình hai bàn tay. Một bàn tay nhỏ bên trái và một bàn tay bên phải to hơn
và khi gấp giấy thì hai bàn tay ấy chạm vào nhau. Mắt tôi ướt đẫm. Tôi nhớ đến
những lần thấy Gấm và bé Liên xòe hai bàn tay phải áp vào nhau, rồi cười lên
vui vẻ. Hai bàn tay ấy Gấm đã đặt trong quyển vở ghi chép tất cả những bí mật
của đời nàng”.
Tôi nghĩ cuộc khám phá
bí mật đời sống tâm hồn con người của tác giả Trương Văn Dân đã chạm tới thành
công bước đầu rất khả quan./.
Hà Nội 4-2012
Bùi Việt Thắng
----------------------
* nguồn: xunau.org
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét