* Kính tặng nhà thơ Quang Dũng
Ngọn
gió ùa qua rừng cây rung lên,
Những
chiếc lá dập dờn trong tiếng gió.
Câu
thơ trầm xoắn một vùng đất đỏ,
Câu
thơ bay lên cháy bỏng ở trong đời.
Người
đọc thơ không trẻ không già,
Lời
thơ không cầu kỳ khúc chiết.
Người
đọc thơ chẳng hề biết mệt,
Niềm
vui ở bên mình, công chúng yêu thơ.
Nước
mắt không rơi ra, ai đó khóc thầm
Vội
đưa cánh tay trần lên chấm mắt…
Câu
thơ như lời khuyên thầm nhắc,
Một
chút thơ thôi xao xuyến bao lòng.
Câu
thơ không đài các, gọt dũa tận cùng
Nơi
đọc thơ cần chi nhà văn hóa.
Giữa
đồi rừng mọi điều như mới lạ
Tiếng
hoan hô lay động rừng già…
Người
nghe thơ có trẻ, có già
Cả
cháu bé còn đòi hương sữa mẹ.
Những
câu thơ hay, ý thơ mới mẻ
Thơ
vào lòng người nhè nhẹ ơn sâu.
Thơ
giao duyên nối nhịp bắc cầu
Người
đọc thơ, người nghe thơ - đồng cảm.
Ở
nơi đây không còn chi lạ lẫm,
Thơ
bay lên trầm lắng muôn màu.
Thơ
với tình người ơn nghĩa vạn đời sau…
.
Quang Dũng (1921–1988) là tác giả một số bài thơ nổi tiếng như
Tây Tiến, Đôi mắt người Sơn Tây, Đôi bờ… Ngoài ra ông còn là một họa sĩ, nhạc
sĩ. Sau vụ Nhân Văn – Giai Phẩm, ông bị phê bình nặng nề, sống ẩn
thân trong nghèo nàn và bệnh tật. Con gái ông, Bùi Phương Hạ lận đận vì lý lịch
của cha.
Năm 1982, Quang Dũng vào thăm con gái ở khu kinh tế mới Lâm Đồng, sống
ở đó vài năm. Nhà thơ Trần Ngọc Trác khi đó làm việc tại đây, đã có mối quan hệ
thân thiết với hai cha con nhà thơ.
Trần Ngọc Trác đã viết lại bài viết này sau khi Quang
Dũng mất. Bùi Phương Hạ cũng qua đời sau ông vài năm...
nhân cách lớn làm nên một con người
.
Cuối năm 1982 tôi rời Đà Lạt đưa gia đình về định cư ở vùng kinh tế mới Hà
Nội tại Lâm Đồng. Gia đình tôi có hai cháu nhỏ. Cháu trai đầu ba tuổi và cháu
gái mới sinh được ba tháng tuổi. Cuộc đời tôi bắt đầu từ những năm tháng khốn
khó của thời bao cấp.
Tôi gởi cháu trai vào học lớp mẫu giáo của cô Bùi Phương Hạ. Không ngờ Hạ
chính là con gái của nhà thơ Quang Dũng.
Nhà thơ Quang Dũng và con gái Bùi Phương Hạ (ảnh tư liệu của TNT)
Những năm đó ở vùng kinh tế mới, lãnh đạo Hà Nội đưa các thầy cô giáo của
thủ đô tăng cường vào dạy học ở Lâm Đồng. Rất nhiều cô giáo xinh đẹp đã có mặt
ở đây. Hạ là một trong những cô giáo như thế.
Một buổi chiều, chúng tôi đốt lửa lên nấu một nồi chè đỗ đen, loại đỗ có hạt
rất to do tôi trồng vừa mới thu hoạch mấy ngày. Chúng tôi với mấy cô giáo dạy
mẫu giáo quây quần bên nồi chè ngun ngút khói, thơm lựng, trong đó có Hạ.
Hạ kể: Khi em lớn lên, em đi học ở Hà Nội mới biết thơ của cha bị coi là
tiểu tư sản. Trong sách giáo khoa trung học còn có những dòng rất nặng nề về
thơ của cha. Các anh chị em của em lớn lên sinh sống thật khó khăn. Bài thơ “
Tây tiến” nổi tiếng của cha trở thành oan gia cho gia đình. Họ bảo: Cha em đã
đi theo cách mạng, chiến đấu mà còn mơ tưởng về những cô gái Hà Nội, là tiểu tư
sản phải xem xét lại. Vậy là cuộc đời của cha em lận đận cho đến ngày qua đời
trong đói khổ ở bệnh viện. Bản thân em ra trường không được vào biên chế Nhà
nước. Nhưng em không quan tâm lắm, em muốn các cháu bây giờ được đi học, được
vui vẻ là em mừng lắm rồi.
Trong ánh mặt Hạ lúc đó ánh lên những giọt nước mắt long lanh. Trong ánh đèn
điện tù mù ở kinh tế mới tôi nhận thấy trong mắt em buồn. Nỗi buồn xa xăm vời
vợi của một thời tuổi trẻ như chúng tôi.
Trong câu chuyện, tôi cố hướng về những kỷ niệm ngày xưa của nhà thơ Quang
Dũng, nhưng Hạ bảo : Buồn lắm anh ơi! Và không kể gì nhiều về cha mình.
Từ đó, chúng tôi coi nhau như anh em một nhà. Nhà thơ Quang Dũng lên thăm và
ở lại với con gái rất nhiều ngày. Ông rất thương con vì thơ mình mà vất vả, oan
khiên từ những bài thơ lãng mạn mà mình đã viết:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùng.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới.
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Những câu thơ lung linh ,sáng lòa, sang trọng như thế mà trở thành nỗi đau
cho cuộc đời các con, có lẽ nhà thơ Quang Dũng cũng không bao giờ lường hết
được.
Một lần nhà thơ Quang Dũng đến chơi nhà, ông đã hướng dẫn cho tôi cách tập
thể dục mỗi sáng sớm trước khi bước ra khỏi giường. Ông bảo: Cần phải có một số
động tác vận động làm cho toàn thân ấm lên. Không được vùng dậy bước xuống đất
mà chưa khởi động. Rồi ông “ biểu diễn” cho tôi xem.
Nhà thơ Quang Dũng cao to như Tây. Ông từng bị dân quân bắt trói dẫn về trụ
sở xã, vì tưởng ông là phi công Mỹ bị bắn rơi ở miền Bắc. May có người biết
chuyện nói cho bà con nghe, ông mới được thả.
Nhà thơ Quang Dũng ăn uống rất khỏe, nhưng rất từ tốn, chậm rãi. Hôm đó, tôi
nấu một nồi bắp nếp Tây Nguyên. Đây là sản phẩm tôi lao động tự túc trên mảnh
đất sau đài truyền thanh của vùng. Quả bắp to dài, hạt mẩy. Quả bắp vừa nhắc từ
nồi ra còn nóng hổi. Tôi mời ông dùng, ông cảm ơn vừa cầm quả bắp, vừa ăn vừa
nói chuyện. Một hồi lâu ông bảo: Mình đếm được 987 hạt nhé! Và cầm bát nước bắp
luộc lên uống từ tốn. Tôi thật ngạc nhiên.
Nhà thơ Quang Dũng hay đến nhà tôi chơi. Nhà tôi lúc đó nằm ở dưới thung
lũng của dốc Phì Phò, khu Đống Đa kinh tế mới Hà Nội. Căn nhà gỗ tôi mua lại
của một thanh niên tiền trạm vừa về Hà Nội. Nhà lợp ngói prociment, ba bức tường
xung quanh làm bằng đất sét trộn với rơm.Mặt trước là những tấm ván thưng, đứng
ở ngoài nhìn thấy rõ bên trong. Quanh năm gió lùa lồng lộng. Nền nhà đất lổm
chổm. Tuy vậy nhà vẫn có ba gian, xung quanh vườn toàn cỏ tranh. Nhà thơ Quang
Dũng đến chơi, thường chống gậy. Cháu trai đầu của tôi khi nghe ông đến lại
chạy lên dìu ông xuống nhà. Nhà hơi dốc, nhưng ông vẫn đi. Một lần, ông vừa đi
chơi Đà Lạt về mang theo một nải chuối chín. Ông bảo: Đây là quà của hai cháu nhỏ.
Tôi hay gọi nhà thơ Quang Dũng bằng bác. Hai bác cháu nói chuyện rất tâm
đắc. Nhà thơ Quang Dũng hôm đó ở lại dùng cơm trưa với gia đình. Đến chiều, tôi
đưa nhà thơ Quang Dũng về nhà Bùi Phương Hạ. Nói là nhà của Hạ, thật ra là căn
phòng nhỏ trong khu tập thể dành cho giáo viên. Hai bác cháu vừa đi chậm rãi,
vừa nói chuyện từ khu Đống Đa vào đến Trường Đông Anh dưới dốc Bà Mão hơn 7 cây
số. Nhưng khi tôi hỏi nhà thơ Quang Dũng về những ngày khó khăn khi bài thơ Tây
Tiến bị “ đánh”, thì bác nói sang chuyện khác, và có chút gì đó sờ sợ trong
ánh mắt của nhà thơ. Tôi lại nói sang chuyện khác, thấy nhà thơ vui hẳn lên.
Bác hỏi tôi về việc Hạ sẽ lấy chồng ở Nam Ban, ý tôi thế nào.v.v…Những lúc rỗi,
ông hay lên Đà Lạt chơi và rất yêu vùng đất này. Nhà thơ cũng có dự định vào
Nam Ban ở hẳn với gia đình tôi để viết truyện ký, làm thơ. Nhưng mấy năm sau
trở về Hà Nội do sức khỏe không được tốt nên nhà thơ không vào được nữa.
Một lần, nhà thơ Quang Dũng bị tai biến. Bàn tay của nhà thơ không duỗi ra
được. Bùi Phương Hạ chăm sóc cho bố tận tình. Nhưng hằng ngày nhà thơ Quang
Dũng vẫn đi ra giếng của hợp tác xã cách khu tập thể giáo viên mấy trăm mét,
xách nước về cho Hạ. Hạ không đồng ý, nhưng nhà thơ bảo rằng: Cần phải tập
luyện để bàn tay trở lại như cũ. Lần sau, vào thăm nhà thơ Quang Dũng, bác khoe
đã viết được rồi và đưa cho tôi xem mấy trang bản thảo nhà thơ vừa viết xong.
Nét chữ tuy không còn như xưa, nhưng vẫn hiện lên những cảm xúc mà ông dành tâm
huyết thổ lộ trong đó.
Ngày Bùi Phương Hạ còn dạy học ở Nam Ban, Hạ có tặng cho tôi một bức ảnh về
nhà thơ Quang Dũng đội mũ ca-lô. Tôi thấy chiếc mũ hơi là lạ. Tôi hỏi. Hạ giải
thích: Đó là chiếc mũ làm bằng…chiếc khăn quàng bằng len. Em quấn chiếc khăn
lên đầu bố, kết thành chiếc mũ ca-lô như thời bố đi bộ đội Tây tiến. Con trai
bác Trần Lê Văn ( bạn thân của nhà thơ Quang Dũng) đã chụp bức ảnh này và tặng
em. Sau đó tôi đã gởi bức ảnh kèm theo bài viết về Quang Dũng in trên báo Lâm
Đồng.
Khoảng cuối năm 1984, Bùi Phương Hạ và một số cô giáo đi tăng cường ở vùng
kinh tế mới Hà Nội tại Lâm Đồng được trở về thủ đô. Tháng 8 năm 1988, tôi ra Hà
Nội và cùng anh trai tôi là nhà văn Trần Phương Trà, công tác ở Ban văn nghệ
Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam đi xe đạp đến trụ sở Liên hiệp các Hội Văn
học nghệ Việt Nam số 51 Trần Hưng Đạo, Hà Nội. Hôm đó là ngày tang thương của
giới văn nghệ. Nỗi buồn không sao tả nổi, khi ba chiếc quan tài sắp xếp bên
nhau của nhà thơ Xuân Quỳnh, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ và cháu Lưu Quỳnh Thơ.
Không ai bảo ai, mọi người lặng lẽ, đau buồn, nước mắt cũng lặng lẽ trào ra.
Sau đó, tôi đề nghị anh trai tôi chở tôi ghé qua thăm nhà thơ Quang Dũng ở
nhà số 45 khu tập thể Nguyễn Công Trứ. Thời kỳ đó, Quang Dũng đang bệnh nặng.
Ông nằm trên chiếc giường bệnh, phủ drap trắng. Tôi không tin trước mắt mình là
nhà thơ Quang Dũng. Một con người to cao như Tây ngày nào, bây giờ là một bộ
xương khô, teo tóp, lọt thỏm trên chiếc giường hơn một mét rưỡi. Trên khuôn mặt
ông vẫn rạng rỡ. Mắt ông nhắm nghiền. Bà Bùi Thị Thạch, vợ nhà thơ Quang Dũng
ghé miệng vào tai nhà thơ nói nhỏ: Có anh Trác ở Lâm Đồng ra thăm ông. Tôi thấy
trên khóe mắt nhà thơ hai giọt nước mắt rơi ra lăn xuống đôi má hóp. Miệng ông
thoáng một nụ cười nhẹ. Hôm đó tôi mang theo máy ảnh, nhưng không dám chụp, sợ ánh
đèn flash lóe lên ảnh hưởng đến sức khỏe của nhà thơ Quang Dũng. Trên đường về,
tôi kể lại, anh trai tôi trách sao không chụp ảnh. Mỗi lần nhớ đến, tôi rất lấy
làm tiếc.
Rời Hà Nội trở về Đà Lạt, trong một thời gian ngắn sau đó tôi nhận được tin
nhà thơ Quang Dũng đã từ trần tại bệnh viện Thanh Nhàn, Hà Nội.
Sau này khi theo học khoa ngữ văn trường Đại học Đà Lạt năm 1986, tôi đã làm
luận văn tốt nghiệp “ Đất nước, con người trong thơ Quang Dũng”, là một trong
những luận văn lúc đó được nhà trường đánh giá cao.
Để có những ngày bên nhà thơ Quang Dũng, tôi thầm cảm ơn Bùi Phương Hạ. Hạ
có chiều cao như bố. Mỗi lần anh em đi chơi với nhau, tôi bao giờ cũng đi trên
lề cao, Hạ đi dưới lòng đường. Tôi chỉ có 1,65 mét, trong lúc đó Hạ cao hơn 1,7
mét. Khuôn mặt của Hạ đẹp như bố, mắt to, mũi cao. Về sau, Hạ lấy Nam, sinh được
cháu Bảo. Cháu Bảo rất đẹp trai, khuôn mặt giống mẹ.
Khi nghe tin Bùi Phương Hạ mất, tôi thật sự bàng hoàng. Thương Hạ, tôi viết
bài thơ:
.
Cha thương em lặn lội lên rừng
Đêm trở rét dạ sờn không đủ ấm
Ngoài kia gió quần lên cấp chín
Dáng cha to bè đốt lửa đêm đêm
Em bình lặng như đời trong sạch quá
Em vô tư đến lớp đến trường
Bầy em nhỏ trong căn nhà nhỏ
Làm dịu êm một kiếp ly hương
Mười năm ra trường còn lận đận
Vì em – con Quang Dũng nhà thơ
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc"
Câu thơ xưa gian khó đến bây giờ…
Hà Nội hôm nay nhà cao, đường rộng
Em trở về tay trắng như xưa
Ba năm lên rừng, em vào biên chế
Cuộc đời thêm trang biết mấy cho vừa
Anh thảng thốt
không ngờ
em ra người thiên cổ
Ngày nào đây còn sưởi lửa cùng nhau
Nhà thơ lớn – cha em ngồi đó
Bóng ông đỏ lừ sáng mãi mai sau.
Mấy lần ra Hà Nội, tôi đến thăm nhà thơ Trần Lê Văn, Ngô Quân Miện, Lữ
Giang, nhạc sĩ Mặc Hy… những người bạn rất thân của nhà thơ Quang Dũng, tôi
được nghe nhiều câu chuyện về nhà thơ Quang Dũng, càng hiểu hơn nhân cách lớn
của ông. Bây giờ tôi không còn được thấy nhà thơ Quang Dũng, em Bùi Phương Hạ
bằng xương bằng thịt – nhưng hình ảnh của hai bố con ông luôn hiện hữu trong
tôi. Những kỷ niệm không thể nào quên ấy sẽ mãi mãi đi suốt cuộc đời của tôi.
Đó là những con người mà tôi vô cùng yêu quý, kính trọng. Những năm tháng khó
khăn ,vất vả của thời bao cấp không làm cho hai bố con gục ngã. Nhân cách lớn
đã làm nên một con người, không chỉ là những bài thơ để đời và ở lại với triệu
triệu trái tim người mà là đạo lý làm người của nhà thơ Quang Dũng.
-------------------
* nguồn: xunau.org
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét