Cách đây không lâu, một người bạn có kể cho tôi nghe
là nhà thơ Du Tử Lê đã tuyên bố ở đâu đó rằng bút hiệu Nguyễn Tất Nhiên của tác
giả “Thà Như Giọt Mưa” là do ông đặt ra cho người thi sĩ quá cố này. Tuy sự
kiện này tôi chưa bao giờ được nghe chính anh Nguyễn Tất Nhiên kể lại trong
suốt thời gian chung sống, tôi cũng không lấy gì làm bận lòng về tính khả tín
của nó. Tôi nghĩ chẳng qua đây chỉ là một trong số những giai thoại văn chương
nào đó mà ông Du Tử Lê, bậc thầy của chữ nghĩa, cha đẻ của nhiều thuật ngữ thi
ca độc đáo như “tan theo ngày nắng vội,” “khi tôi chết hãy mang tôi ra biển,”
“ở chỗ nhân gian không thể hiểu,” kể lại trong lúc trà dư tửu hậu để, hoặc lý
thú hóa một mối duyên thi văn, hoặc phong phú hóa kho tàng đào tạo tên tuổi của
ông, vân vân. Tính thật hư của sự kiện dù sao cũng chỉ trong vòng tương đối mà
thôi, hơn nữa chấp làm gì một việc đặt tên trong quá khứ khi cuộc sống trước
mặt có quá nhiều chuyện để đối phó và suy tư.
Thế nhưng sau khi đọc bài viết của ông Du Tử Lê đăng
trên giai phẩm Xuân Canh Dần của Nhật Báo Người Việt, dưới tựa đề
“Trường Hợp Nguyễn Tất Nhiên, Những Ngày Tháng Cũ,” tôi thật sự ngạc nhiên và
cảm thấy cần phải xét lại thái độ im lặng trước giờ. Một cái gì đó thôi thúc
tôi lên tiếng, một lần này thôi, dù biết rằng “lời thật” của tôi có thể sẽ làm
“mất lòng” một bậc đàn anh văn nghệ vĩ đại của người chồng cũ đã khuất của
mình.
Tại sao có sự thôi thúc này? Phải chăng bởi vì nội
dung của bài viết có liên quan đến một người đã chết, nghĩa là một kẻ không thể
tự mình lên tiếng để công nhận hoặc phủ nhận, hay bổ túc những phần trăm sự
thật mà tác giả đã vô tình (hoặc cố ý) bỏ sót? Cho dù tôi không biết hết một
trăm phần trăm sự thật, ít ra sự trình bày của tôi hôm nay cũng thắp lên được
một ánh lửa khiêm tốn giữa bóng đêm dày đặc kín bưng. Tôi cũng xin khẳng định
rằng việc lên tiếng này không hề xuất phát từ tình cảm bất bình khi thấy suốt
một bài viết dài, thi sĩ Du Tử Lê chẳng ghi nhận nét độc đáo nào đó trong sự
nghiệp thi ca của một nhà thơ khác được lấy nửa dòng. Chuyện ông khen hay không
khen thơ Nguyễn Tất Nhiên thật sự không quan trọng đối với tôi, cho dù không ai
không biết Du Tử Lê là một tên tuổi nổi tiếng trên văn đàn hiện nay.
Để tránh làm mất thì giờ, tôi xin đi thẳng vào vấn
đề. Trong bài viết vừa dẫn, ông Du Tử Lê cho rằng chính ông đã đặt bút hiệu
Nguyễn Tất Nhiên cho chàng “thi sĩ tỉnh lẻ” này ngay ngày đầu tiên gặp gỡ vào
một buổi sáng cuối năm 1970 tại quán cà phê La Pagode Sài Gòn, khi cậu học trò
nhà quê lặn lội lên thành diện kiến đàn anh để tặng cuốn “Thiên Tai,” một tập
thơ mà cậu ta vừa mới in ra.
Theo nguyên văn lời kể của ông Du Tử Lê, “Nhan đề
của cuốn thơ in dạng copy đó là “Thiên Tai.” Chữ lớn, đậm. Tên tác giả “Hoài
Thi Yên Thy” chữ nhỏ, mảnh.” (sic) Vì thấy Hải (tên thật của Nguyễn Tất
Nhiên) tha thiết với chuyện được đăng thơ trên tạp chí Văn (lúc ấy do ông Trần
Phong Giao trông coi) nhưng gửi hoài không được toại nguyện, nhà thơ Du Tử Lê,
vốn lão luyện trong chốn trường văn trận bút, đã thấy ngay vấn đề: “Cầm lên
tập thơ mỏng của Hải, lật vài trang, tôi nghĩ, ngay cái bút hiệu “Hoài Thi Yên
Thy” của cậu, đã tố cáo tính cách văn nghệ học sinh, thành viên thi văn đoàn
tỉnh lẻ rồi! Ngay cái tên, tự nó cũng đủ khiến những người phụ trách việc chọn
thơ cho Văn, không tin tưởng!” (sic)
Và ông, với thiện ý giúp đỡ, đã không nề hà “nói
ra ý nghĩ của mình với Hải. Tôi bảo, tốt nhất Hải nên chọn tên thật. Vì cái tên
Hoài Thi Yên Thy nghe cải lương, học trò. Không ổn.” (sic)
Ngoài sự chờ đợi của ông Du Tử Lê, cậu Hải không chút
gì cảm thấy khó chịu. Và sau khi được ông thuyết giảng về yếu tính để thành
công trong việc chọn bút hiệu, như “việc đầu tiên, bút hiệu đó phải lạ, dù
vô nghĩa,” vân vân, “Hải nói ngay: Vậy anh nghĩ cho em một cái tên… lạ
đi. Không có nghĩa cũng được.” (sic) Và cậu ta còn nài nỉ ông Du Tử Lê phải
làm điều đó ngay lập tức chứ không thể chờ, cho dù chỉ vài bữa, vì “em ở
tuốt Biên Hòa. Lại không có xe, đâu có thể chạy lên chạy xuống thường xuyên
được.” Thế rồi, như một chuyện thần thoại, hai chữ “tất nhiên” thành hình
trong đầu ông và ông “mượn Hải cây bút, viết ba chữ xuống bìa sau tập “Thiên
Tai”: Nguyễn-Tất-Nhiên.” (sic)
Đọc tới đây thì tôi thấy ngay một điều gì đó không
ổn. Vào khoảng gần cuối năm 1970, lúc tôi đang học lớp Đệ Tam (lớp 10 bây giờ)
thì anh Nhiên có xin phép thầy hiệu trưởng mang tập thơ Thiên Tai, với
bút hiệu Nguyễn Tất Nhiên hẳn hòi, vào từng lớp để bán vì tập thơ in xong mà
tác giả chưa chạy đủ tiền để trả cho nhà in. Chi tiết này cũng được nhà báo Hà
Tường Cát, vốn là thầy dạy của chúng tôi tại trường Trung Học Ngô Quyền, kể lại
trên một bài viết được đăng báo vài ngày sau khi anh lìa đời. Cũng qua bài “Vài
Kỷ Niệm Về Nguyễn Tất Nhiên” (nhật báo Người Việt, số 2481 ngày 8
tháng 8 năm 1992), tôi mới biết thêm là hình bìa tập Thiên Tai do Đinh Cường vẽ
chính là “công” của thầy Cát (vì đối với giới học trò làm thơ như chúng tôi lúc
đó, có hình bìa Đinh Cường là một điều rất đáng nể, rất “ngầu,” nghĩa là một ấn
tượng rất khó quên!). Vì thời cuộc, tập Thiên Tai đến nay hầu như không
còn nữa nhưng không hẳn đã tuyệt bản. Nhà thơ Nguyễn Hoàng Nam, em trai
của anh Nhiên, đã may mắn còn giữ được một bản và giúp tôi gửi đến độc giả bản
sao bìa trước và bìa sau của cuốn thơ này, như một di vật của người quá cố. Nếu
vì một lý do nào đó, độc giả không coi được hình bìa thì xin mời vào trang nhà
của Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Ngô Quyền để tham khảo (ngo-quyen.org).
Sự thật đã rõ ràng như thế, thì chỉ có một cách để bào chữa cho ông Du Tử Lê là: Rất có thể thời điểm gặp gỡ là một buổi sáng định mệnh nào đó vào cuối năm 1969 hay đầu năm 1970 (chứ không thể nào là cuối năm 1970) và tập thơ mà cậu học trò tên Hải tặng cho nhà thơ Du Tử Lê lúc ấy chỉ là… bản nháp! (Nói là nói cho vui vậy thôi, chứ ai cũng biết, vào thời gian ấy tại Việt Nam, kỹ thuật in ấn dĩ nhiên rất khác xa so với bây giờ.)
Và cũng rõ ràng như thế, thì một câu hỏi phải
được đặt ra: Tại sao ông Du Tử Lê lại hạ bút viết như đinh đóng cột về một sự
kiện mà ông không nhớ rõ như vậy?
Như tôi đã thưa, đối với tôi việc ai đặt tên không
quan trọng. Bên cạnh đó, tôi cũng không để tâm phiền giận những tác giả trong
lúc viết bài về Nguyễn Tất Nhiên đã vô tình phóng bút quá đà (tôi từng đọc qua
một số bài viết không sát sự thật về nhà thơ yểu mệnh này). Với tôi, viết với
một tấm lòng như thế nào mới là điều đáng kể. Mới đây, khi tìm tài liệu trên
internet để viết bài này, tôi vừa biết có một Blog viết về một “nguồn gốc” khác
của bút hiệu Nguyễn Tất Nhiên. Đó là bài của Trần Thuận Văn đề ngày 3-7-2009,
viết trên Blog của chính mình. Là một người bạn cũ thời còn đi học và cùng làm
thơ với Hoài Thi Yên Thi/Nguyễn Tất Nhiên, anh viết về những kỷ niệm hồn nhiên
cười ra nước mắt của thuở học trò giữa ba người bạn thân thiết, trong đó có một
đoạn như sau: “Bắt đầu năm vào học thì Nhiên tâm sự với tôi (Trần Thuận,
bút hiệu Trần Thuận Văn) và Lưu (Hồ Văn Lưu, bút hiệu Hồ Triều): “Tau
muốn tìm bút hiệu khác, vì tau làm xong tập thơ Thiên Tai này chuẩn bị in.” Tôi
và Lưu suy nghĩ rồi góp ý đổi bút hiệu cho Nhiên là Nguyễn Tất Nhiên liền được
hắn chấp nhận ngay.” (sic)
Trong lòng không gợn một nghi vấn gì, tôi tiếp nhận
những mẩu chuyện buồn vui kể trên với một tâm trạng bùi ngùi vì hai trong ba
nhân vật (tôi quen biết cả ba anh) trong lời kể trên đã ra người thiên cổ. Âu
cũng là một câu chuyện chung quanh một sự thật mà chỉ có anh Nhiên mới có thể
trả lời. Mà anh lại qua đời sớm quá, hay ít nhất là đủ sớm để những huyền thoại
về anh cứ thế mà sản sinh.
Thành thật mà nói, trong thời gian chung sống, anh
Nhiên đã kể cho tôi biết, trước khi có bút hiệu Nguyễn Tất Nhiên, anh dùng tên
Hoài Thi Yên Thi khi ra tập thơ “Dấu Mưa Qua Đất” (1966) và “Nàng Thơ
Trong Mắt” (1968). Tôi từng cười ngặt nghẽo về bút danh quá con gái, khác
nhau một trời một vực với bút hiệu hiện thời này của anh, và anh cũng vui vẻ
công nhận rằng từ lúc anh nghe theo lời khuyên của đàn anh Du Tử Lê đổi bút
hiệu thì sự nghiệp thi ca “lên” rõ ràng. Hỏi tại sao là Tất Nhiên thì anh cười
ha hả, bảo tất nhiên phải là Tất Nhiên thôi.
Tôi ngờ rằng cái tên Hoài Thi Yên Thi đã để lại một
dấu ấn nào đó khó quên trong lòng thi sĩ đàn anh khiến ông không còn sự minh
mẫn cần thiết chăng? Bởi vì, nếu tôi nhớ không lầm, trong mớ thư từ giấy má mà
anh Nhiên ky cóp mang theo lúc vượt biên và đem ra cho tôi xem, có cả một bức
thư của nhà thơ Du Tử Lê “thân gửi Cô Hoài Thi Yên Thi” vì ông lầm tưởng
đây là một nhà thơ… nữ. Tiếc là tất cả những thứ giấy tờ nói trên nay không còn
nữa. Nhưng, giấy tờ dù mất, ký ức vẫn còn. Cho nên, vì lương tâm đối với một
người đã mất không thể tự lên tiếng, tôi mới phải chẳng đặng đừng tiết lộ điều
này chỉ vì muốn nói lên một sự thật mà tôi may mắn được thấy qua lá thư ấy
(ngoài hai đương sự), rằng ông Du Tử Lê đã liên lạc thư từ với (cô) Hoài Thi
Yên Thi từ trước chứ không phải đợi đến buổi sáng ở quán La Pagode ông mới gặp
cái tên này lần đầu, như ông đã đặt bút thuật lại như thuật một câu chuyện vừa
mới xảy ra.
Vậy thì, tại sao ông Du Tử Lê chọn một sự kiện mà ông
không nhớ rõ để viết thành một bài có bố cục hẳn hoi để dẫn dắt người đọc đi từ
ngạc nhiên này tới bất ngờ khác, rồi đi đến một bất ngờ gây sốc cuối cùng cho
ông mà cũng là cho độc giả, như lối dựng phim Hollywood là “Nhiên đến
tìm tôi, với chiếc xe Honda, còn rất mới” (sic) (ý hẳn ông muốn bảo rằng
Nguyễn Tất Nhiên đã đạt được điều mà anh ta đòi, là thưa Phạm Duy để lấy tiền
mua xe Honda, vì ban đầu cậu học trò này không có xe)? Thắc mắc này cứ lởn vởn
trong óc tôi từ khi đọc xong bài báo ấy. Tôi có cảm tưởng (và mong rằng mình
lầm) ông Du Tử Lê muốn trình bày cho mọi người thấy, rằng “trường hợp” Nguyễn
Tất Nhiên chẳng qua như thế này đây: một tên tuổi hữu danh vô thực, nhờ vận may
mà nổi tiếng (Phạm Duy bắt mạch thị trường, tung ra bài nhạc phổ thơ dựa trên
“triết lý nôm na có còn hơn không”) như lời ông viết, “một sớm một chiều,
Nguyễn Tất Nhiên nổi tiếng khắp nơi – Như một hiện tượng, chưa từng xảy ra.
Ngược hẳn với sự “yên ắng” của các diễn đàn văn học: Không một bài thơ nào của
Nhiên, xuất hiện” (sic); và rằng Nguyễn Tất Nhiên trơ trẽn bon chen,
sau đó lại vô ơn bạc nghĩa đối với nhạc sĩ Phạm Duy, thẳng tay thưa nhạc sĩ này
ra tòa để đòi chia chác tiền bạc khi cần.
Kỹ thuật trình bày điêu luyện của Du Tử Lê cho thấy
ông kể lại “trường hợp” Nguyễn Tất Nhiên một cách thật tự nhiên, bởi câu chuyện
khởi đi là từ lòng hào hiệp tận tụy giúp đỡ đàn em của chính ông. Tuy nhiên,
cũng chính vì kỹ thuật này mà ông quên để một chút tình dành cho kẻ đàn em văn
nghệ của mình. Ông kể, qua lời “mắng vốn” của ông xếp Trung Tá Nguyễn Đạt
Thịnh, có vẻ như khơi khơi tự nhiên “Nguyễn Tất Nhiên đòi Phạm Duy phải đưa
cho Nhiên một triệu đồng. Nhiên cần tiền mua một chiếc xe Honda, đi học”
(sic) mà không trình bày nguyên do, hoàn cảnh đẩy đưa khiến câu chuyện “đòi
chia bản quyền trở thành ồn ào”.
Tưởng cũng nên nhớ Nguyễn Tất Nhiên sinh năm 1952.
Năm tập Thiên Tai ra đời (1970) anh chỉ là một cậu học trò 18 tuổi và năm anh
được cây đại thụ Phạm Duy phổ nhạc, tuổi anh mới vừa quá 20, còn trong vòng bảo
bọc của gia đình (cũng khá giả), nghĩa là không phải túng thiếu hay ham tiền
đến nỗi phải thưa kiện như thế. Điều bận tâm duy nhất của anh lúc đó (và muôn
đời) vẫn là thơ và thơ, kèm theo việc muốn cho người ta biết đến tài làm thơ
của mình. Theo chỗ tôi được biết, anh (và nhất là cha mẹ anh) rất bực bội
khi thấy những bài nhạc được in bán dưới hình thức từng bài lẻ đề tên người
sáng tác là Phạm Duy, không hề nhắc tới tên Nguyễn Tất Nhiên. Ngay cả lúc bài
Thà Như Giọt Mưa được nhạc sĩ Phạm Duy bán bản quyền cho hãng dĩa Việt Nam để
soạn thành ca khúc tân cổ giao duyên (dường như do các nghệ sĩ Chí Tâm và Lệ
Thủy trình bày) cũng vậy. Tên tuổi thi sĩ hoàn toàn bị gạt ra ngoài… hư vô. Với
tính tình nóng nảy, anh Nhiên tức tối nhưng không làm gì được. Anh chạy đi cầu
cứu với giới báo chí thì đúng lúc thiên hạ đang bất mãn dùm cho thi sĩ Linh
Phương (được nhạc sĩ Phạm Duy phổ thơ bài Kỷ Vật Cho Em mà không nêu tên tác
giả). Cùng với báo Sống của nhà văn Chu Tử, một số báo khác cũng đứng về phía
những người làm thơ bị sang đoạt tên tuổi, phát động phong trào đặt lại vấn đề
tác quyền cho người làm thơ và gây áp lực với giới nhạc sĩ. Theo lời kể của cha
mẹ anh Nhiên, ông Phạm Duy cũng tìm lên nhà anh ở Biên Hòa và gặp họ, nhưng gặp
theo kiểu “ghé qua nhà cho biết” chứ không hề đề cập đến vấn đề. Vẫn theo lời
ông bà, chờ đợi mãi “một lời phải quấy” nhưng không được đáp ứng, cuối cùng họ
mới giao cho một luật sư bà con đứng ra can thiệp và luật sư này đâm đơn kiện
một số cơ sở thương mại (như hãng dĩa Việt Nam) đã mua nhạc của ông Phạm Duy.
Nội vụ sau đó được điều đình để tránh việc đem ra tòa xét xử hầu cứu vãn thanh
thế cho nhạc sĩ này. Bên nguyên cáo bãi nại và nhận một số tiền bồi thường do
những nhà thương mại nói trên đứng ra chi trả.
Nhìn qua về chuyện thưa kiện giành lại một phần tác
quyền, kể ra bài viết của ông Du Tử Lê không hẳn là sai sự thực, chỉ tiếc rằng
ông không (chịu) trình bày toàn cảnh bức tranh sự thực đó mà thôi.
Còn về bề ngoài lôi thôi, cư xử cổ quái, tính tình
bừa bãi của anh Nhiên, thì tôi không có ý kiến. Vả lại, những chi tiết này cũng
đâu có mới mẻ gì. Chúng đã được nhà báo Hoàng Dược Thảo (người bạn đời lúc đó
của ông Du Tử Lê) kể lại với tấm lòng cảm thông khoan thứ qua một bài viết dài
rất cảm động, thương tiếc người em văn nghệ tài hoa nhưng bất toàn, bất hạnh
của chồng mình. Bài được đăng trên tuần báo Sài Gòn Nhỏ của bà ngay sau
khi anh Nhiên qua đời (tháng 8, 1992) và sau đó có đăng lại trên tạp chí Tân
Văn (số 3, tháng 10, 2007) dưới tựa đề “Nguyễn Tất Nhiên (1952-1992), Buồn
Hơn Trước Nhiều.” (“Buồn hơn trước nhiều” là lời thơ của Nguyễn Tất
Nhiên).
Ngoài ra, chuyện trước khi nổi tiếng, Nguyễn Tất
Nhiên phải cạy cục bon chen chỗ này chỗ nọ để đăng thơ mà không được toại
nguyện, tôi cũng không lấy gì làm thắc mắc. Sự kiện Nguyễn Tất Nhiên có được
các ngài ngự sử văn học thời đó thừa nhận hay không, bây giờ điều này không
thành vấn đề bởi những phán đoán ấy không làm cho thơ anh hay hơn hay dở hơn,
trường tồn hay mất dấu. Tôi còn phải cám ơn ông Du Tử Lê vì khi được đọc những
gì thi sĩ này vô tình hé mở đôi chút về không khí văn nghệ đầu thập niên 70 tại
Sài Gòn (một không khí nặng phần kỳ thị vùng miền, tỉnh lẻ, thủ đô), tôi mới
hiểu hơn và thương cảm những lời thơ tự thán của người chồng cũ của mình:
“Mới ngoài hai mươi mà trầm trọng chứng đau lưng
Bởi luồn cúi mỗi ngày dăm bảy bận!
Đời chẳng khác tay ma đầu biển lận
Keo kiệt từng phần danh lợi sớt chia
Bước ra đường ai cũng đội mão mang hia
Ai cũng cố ngụy trang cũng nặng phần trình diễn!”
(1974, Lần Cuối, trích tập Thơ Nguyễn Tất Nhiên)
Thôi thì tạm gạt bỏ cái nhìn tiêu cực cho rằng ông Du
Tử Lê có hậu ý nào đó khi đặt bút, tôi thấy tội nghiệp cho ông vì thế kẹt mà
ông tự dấn thân vào.
Một đằng ông muốn bài viết lôi cuốn nên phải
chọn lựa, và nếu cần, dàn dựng nên những chi tiết thật đậm nét, thật độc đáo
lồng trong một bố cục thật chặt chẽ theo kiểu một truyện ngắn có tính cách hư
cấu. Một mặt ông cũng biết rõ rằng nếu viết về một nhân vật có thật, một tên
tuổi nhiều người biết tới, thì bài viết lại càng “ăn khách” gấp bội. Tuy nhiên,
chọn lựa đề tài này ông chạm phải một điều mà một người cầm bút chân chính có
lòng, có lương tâm, rất cần phải cân nhắc, suy nghĩ chín chắn trước khi làm. Đó
là viết về một người đã chết.
Tôi từng nghe các cụ ta hay dạy: Nghĩa tử là nghĩa
tận. Chết là hết. Trừ trường hợp cùng cực chẳng đã, thường thì người ta tránh
nói những điều không hay về một người đã mất cho dù điều đó là sự thật đi nữa.
Đằng này ông Du Tử Lê viết về một Nguyễn Tất Nhiên qua đời đã gần 18 năm bằng
một bài viết bới tung quá khứ với những hình ảnh phiến diện, chắp vá và, đôi
chỗ không đúng sự thật. Tại sao như vậy? Và đau lòng hơn nữa là tại sao ông lại
chọn đăng trên một tờ báo Xuân, nơi người ta chờ đợi đọc được những điều đẹp đẽ
tốt lành để khởi đầu một năm tinh nguyên trước mặt?
Về vấn đề thưa kiện Phạm Duy của Nguyễn Tất Nhiên,
chính cha mẹ anh, vào những năm tháng gần đây, mỗi khi được hỏi đến, họ đều bùi
ngùi trả lời: “Thôi, thằng Nhiên nó chết rồi. Hãy để cho nó siêu thoát. Chuyện
qua lâu rồi, thôi để cho nó qua đi mà…”
Mười tám năm trước, năm anh vừa chẵn 40, chúng ta đã
vô tình ngó lơ để cho con dao định mệnh có dịp ứng vào lời thơ tiên tri thống
thiết mà anh làm năm 20 tuổi:
“Ta phải khổ cho đời ta chết trẻ
Phải ê chề cho tóc bạc với thời gian
Phải đau theo từng hớp rượu tàn
Phải khép mắt sớm hơn giờ thiên định!”
(1972, Giữa Trần Gian Tuyệt Vọng, trích tập Thơ
Nguyễn Tất Nhiên)
Mười tám năm sau, người chết đã chết, ngàn năm im
bặt, mang theo sự thật xuống dưới đáy mồ, tôi không thể cam tâm ngó lơ để cho
một lần nữa những lời thơ tiên tri của anh viết năm 21 tuổi lại trở thành linh
nghiệm:
“Đời, vốn không nương người thất thế
Thì thôi, ô nhục cũng là danh!”
(1973, Hai Hàng Me Đường Gia Long, trích tập Thơ
Nguyễn Tất Nhiên)
Trong bối cảnh “nhiễu nhương” như bây giờ, tôi ngậm
ngùi hiểu thêm được một định nghĩa khác của thuật ngữ “thất thế” mà anh dùng.
Đó là cái “thất thế” của những Bùi Giáng, Nguyễn Ngu Í, Nguyễn Tất Nhiên, của
những con người tài hoa nhưng đầu óc, cách suy tưởng, thái độ ứng xử, không
được bình thường. Bất hạnh hơn, Nguyễn Tất Nhiên còn “thất thế” gấp hai lần vì
anh vừa bất thường lại vừa mất sớm. Mỗi khi nhắc tới thi hay văn tài của họ,
người ta thường kèm theo những giai thoại lạ đời mà người viết có dịp chứng
kiến hoặc thậm chí chỉ nghe kể lại. Tệ hơn nữa, có kẻ quá đỗi thường tình, chỉ
thích chí khai thác những chuyện tư riêng eo xèo đời mọn của những nhân tài này
thay vì thưởng ngoạn những tinh hoa mà họ đã chắt lọc từ phía con người bất
toàn kia để cống hiến cho đời.
Nhà thơ Ngu Yên, trong một lần mạn đàm văn học, có dí
dỏm ví dòng thơ tài tình của một thi sĩ không khác chi bộ xương của loài khủng
long. Vài ngàn năm sau, mọi thứ rã tan tàn lụi, nhờ khai quật được những bộ
xương này mà nhân loại biết có một thời kỳ trên mặt đất có loài thú đó. Vậy khi
một nhà thơ, nhà văn nào đã qua đời, thì, làm ơn, nếu không vì nhu cầu nghiên
cứu tiểu sử để tìm hiểu cặn kẽ về bối cảnh và điều kiện sáng tác của họ, xin
đừng khai thác đời tư của họ để phục vụ cho bất kỳ một mục đích nào khác hơn là
góp phần cống hiến cho đời ba điều thật đơn giản, nghe rất nhàm tai, nhưng vô
cùng cao quý, đó là: Chân, Thiện và Mỹ. Xin gắng bảo tồn
bộ-xương-thi-ca-tinh-túy của họ để thế hệ mai sau biết được, có một thời, cuộc
sống nhân loại cũng văn minh, dù ở mấy ngàn năm trước.
Nguyễn Thị Minh Thủy
Westminster, cuối tháng Giêng, 2010
Nguồn: www.ngo-quyen.org
copy từ: văn viết lộc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét