Minh họa: Nguyễn Ngọc Thuần
Cô cháu gái hỏi tôi: “Bác viết văn hay lắm. Chắc bác làm thơ
cũng hay”. Con bé này giỡn chơi, 22 tuổi đầu, thi
đâu đậu đó, tưởng thơ văn là bài luận mẫu, dễ như nhón hạt điều cho vào miệng
ăn vặt.
Tôi đáp: “Trời đất! Mấy ông nhà
văn trí tuệ lắm. Họ tái hiện những ngóc ngách của đời sống, của con người
qua tác phẩm. Họ có trí tưởng tượng phong phú, biết hư cấu, rành rẽ tâm lý nhân
vật, cho sống là sống, bảo chết là chết. Quyền lực vô biên… Nhà văn phải sáng
tạo, cháu à! Còn bác chỉ là thằng viết tạp, văn vẻ thì gọi là tùy bút, nghĩa là
viết tùy tiện, tùy hứng. Bác không thể sáng tạo, phải có sự kiện bác mới
viết được. Còn làm thơ? Bác tuyệt đối không có khả năng làm thơ. Mấy ông làm
thơ còn vĩ đại hơn nhà văn. Cùng một đề tài, nhà văn phải viết tới chục ngàn,
trăm ngàn chữ mới diễn đạt nổi, còn mấy ông thi sĩ chỉ cần vài chục chữ”.
Tôi giải thích bằng một kiến thức
“ngang hông” như thế, chẳng biết con bé có ngộ ra được cái tầm trọng đại của
thế giới thơ văn không. Chuyện tôi không biết làm thơ là chân lý rồi, khỏi bàn,
nhưng tôi giấu (dốt) con bé một điều tệ hại hơn nhiều, đó là trình độ thưởng
thức thơ của tôi rất cọc cạch và kém cỏi.
Sự kém cỏi này không phải là
không giải thích được. Hồi con đi học, nghe ông thầy giảng bài “Thu điếu” của
Nguyễn Khuyến, tới đoạn “Sóng nước theo làn hơi gợn tí/ Lá vàng
trước gió sẽ đưa vèo”. Tôi ngứa miệng đưa
tay phát biểu: “Sóng nước gợn tí là gió rất nhẹ. Gió nhẹ không thể làm chiếc lá
rơi cái vèo được. Em e rằng tác giả không đi câu, mà ngồi nhà bịa ra bài thơ
này”. Thơ là bay bổng, là tận hưởng, mà
lại ngập chìm theo cái kiểu… soi mói như thế thì nhã hứng thưởng thức thơ cọc
cạnh là phải.
Thằng bạn tôi có cô bạn gái học
Văn Khoa, dễ thương, lãng mạng và sính thơ văn, nhưng trình độ thơ văn của tên
đó khá lắm cũng chỉ cỡ… tôi, mặc dù y rất giỏi toán lý. Cái thứ viết thư cho
người yêu mà chỉ toàn gạch đầu hàng thì số phận mối tình có thể tiên đoán được.
Chuyện gì đến thì phải đến… Tôi đến nhà y chơi, thấy trên bàn là tờ giấy nguệch
ngoạc bài thơ. Chúa ơi! Y làm thơ… Lâu quá rồi, tôi không nhớ nội dung, hình
thức bài thơ ấy thế nào, nhưng chắc chắn đó là bài thơ có vần điệu tán loạn
nhất mà tôi từng đọc, một thứ văn xuôi chấm xuống hàng nhiều lần. Tôi kéo y đi
nhậu, cả buổi tối ngồi nghe nó trút nỗi niềm… Tôi bảo nó: “Ngày mai tao sẽ cho
mày mượn tập thơ “Tâm tình hiến dâng” của Tagore. Bài thơ của mày gây cho tao
cảm xúc mạnh, đến độ tao liên tưởng tới cái chuyện của tao rồi cũng kết thúc
như vậy. Thơ của mày hay hơn thơ Tagore”.
Một thằng mất căn bản về thơ như
tôi thì không đủ tư cách để phát biểu như thế nào là một bài thơ hay. Kẻ dốt thơ
mà thích thơ là chuyện không thể, nhưng khoái thơ thì chắc không ai (nỡ) cấm.
Có những câu thơ cũng làm tôi tâm tư, nghĩ ngợi, thường là những bài thơ chữ
nghĩa đơn giản, người khó tính không chừng cho đó là thơ con cóc cũng nên,
chẳng hạn:
“Buổi chiều mẹ lên rẫy
Dưới bóng cây Kơ-nia
Bóng tròn che lưng mẹ
Về nhớ anh mẹ khóc”.
Hay một câu thơ mà anh bạn tôi
lêu lổng ở miền Nam Trung Bộ, nghe bà già 80 tuổi đọc lại:
“Thò tay mà bứt ngọn ngò
Thương anh đứt ruột giả đò ngó lơ”.
Tôi khoái thơ Lý Bạch. Khoái
không phải vì thơ ông hay (hiểu theo nghĩa hàn lâm, bác học) như người đời ca
tụng, mà vì thơ ông có mùi… rượu. Những năm cuối đời Lý Bạch ghé Tuyên Châu,
tại lầu Tạ Thiếu, ông làm thơ tiễn bạn:
“Bỏ ta ra đi, đó là ngày hôm qua, không thể giữ lại được
Làm rối loạn lòng ta, là ngày hôm nay, nhiều nỗi lo phiền
…
Lấy dao chém nước, nước lại trôi đi
Nâng chén khuây sầu, sầu lại thêm sầu…” (Trần
Trọng San diễn nghĩa).
Nghe cảm khái cách gì! Âm tiết
Hán-Việt của bài thơ đọc nghêu ngao lên nghe cũng kêu lắm. Hình như bài thơ này
đã được cải biên, thêm thắt dài ngoằng đưa vào phim Bao Công thì phải.
Thưởng thức thơ kém cỏi lại hay
ngứa mồm thì khó lòng tránh khỏi vạ miệng. Đám bạn yêu thơ mỗi lần ngồi nhậu
lại đem thơ ra tán, tự ngâm, tự khen và tự sướng. Tôi ngơ ngác chẳng hiểu gì
cả, thấy họ như từ từ bay lên thành người… cõi trên. Nhớ lại thằng bạn thất
tình làm thơ, mình có thể cảm nhận nỗi niềm của nó, còn ở đây kẻ cõi trên,
người cõi dưới. Cái máu soi mói của tôi lại nổi lên. Thần khẩu hại xác phàm!
Chúng xúm lại xỉ vả tôi là thằng hãm hiếp thơ ca. Tôi cúi đầu nhận
tội. Có chơi có chịu. Còn chịu được là còn chơi. Chứng nào tật nấy, vài ba chén
túy lúy rồi còn biết sợ ai. Khi say, tôi biến Tào Tháo thành đứa con hoang thai
của Pak Chung Hi còn được cơ mà. Độc tài mà được việc như cha nội này coi bộ
cũng có lý.
Người ta làm thơ có khi vì tức
cảnh sinh tình, ý thơ lai láng, không “nhả” thơ ra không chịu được. Cũng
có khi làm thơ chỉ để bày tỏ nỗi niềm riêng tư, viết cho mình, mặc ai hiểu mặc
ai không hiểu, khen chê mặc kệ, Họ làm thơ để xả stress, chứ không phải chơi
trò chữ nghĩa.
Tôi biết một gã lái buôn xe
(hơi), gặp thời ế ẩm, cảm thán làm thơ kể chuyện vinh nhục của nghề. Y tự nhận
mình “như thằng trọc phú tiếp tay tú bà”, và khi hành
nghề thì chẳng khác gì “Hàn Tín cúi người luồn trôn”. Lái
buôn mà ví với Hàn Tín thì khẩu khí coi bộ quá đà. Sao không ví như mấy em bia
ôm chiều khách cho nó… mượt? Cảm nhận thơ phú với tôi là chuyện khó khăn, nhưng
với bài thơ “lựu đạn” này, chỉ với câu cuối “Ta đem bán thứ nhiễu nhương làm
giàu”, tôi có thể đoán được cái bụng của y, sớm muộn rồi cũng lại
ngựa quen đường cũ. Cái nghiệp buôn xế ngấm vào tim phổi y rồi.
Lại có người làm thơ diễu đời,
phản ánh những bức xúc chung của xã hội. Thơ loại này giống như vè, tôi gọi đại
là… “thơ sến”. Nhưng thú thiệt, tôi lại
khoái thơ sến, và thường ê a bên bàn rượu. Đây này, đọc thử vài câu của Nguyễn
Bảo Sinh nghe chơi:
“Tự do sướng nhất trên đời
Tự lừa lại sướng hơn mười tự do!”.
Hay:
“Muốn cho trộm khỏi vào nhà
Đề vào trước cửa, đây là nhà thơ”.
Tôi có người bạn là thi sĩ thuộc
loại có số má, lại kiêm tiến sĩ văn học, nghĩa là có thừa kỹ năng chặt chém.
Anh ta mới có cháu nội. Hôm thôi nôi thằng bé, anh tặng bè bạn tập thơ “Hạnh
phúc làm ông”. Tôi trích đoạn một bài thơ của anh:
“Bé Gôn chưa đi được
Đã thích leo cầu thang
Được ông phía sau đỡ
Chân huơ như tướng tuồng…” (PQC).
Hình như khi người ta sướng quá,
thì những ngôn từ bay bướm chạy đi đâu mất tiêu thì phải, chỉ còn lại chữ nghĩa
mộc mạc thời hoang sơ, như bài thơ trong Kinh Thi “Quan quan thư cưu, tại hà chi châu…”.
Điều này làm tôi liên tưởng đến con vẹt của nhà văn Nhật Chiêu, nó rên rỉ theo
tiếng kêu đang hồi sướng ngất của người đàn bà: “Em chết mất…”. “Nguyên sơ” là
thế! Con vẹt lập lại vô cảm, nhưng tôi là người, không phải vẹt, nên tôi có thể
chia sẻ cảm xúc với “thằng ông nội” đang hồi “sướng ngất” vì có “thằng cháu
nội”.
Một thằng bạn khác của tôi còn
giữ lại những bài thơ tặng vợ hồi hai người chưa lấy nhau. Thơ tình thì “bốc”
mát trời ông địa rồi. Hơn 30 năm đã trôi qua. Tôi hỏi nó: “Thơ hồi đó mày làm
tặng bả, bao nhiêu phần trăm là cảm xúc nhớ nhung, bao nhiêu phần trăm là chơi
chữ lấy le”. Nó gãi đầu, không trả lời. Tôi lại hỏi: “Thế dạo sau này, tụi mày
có mang thơ này ra đọc cho nhau nghe không?”. Nó cũng gãi đầu… Già đầu rồi mà
còn mắc cỡ với những rung động đầu đời. Rõ khỉ!
Thưởng thức thơ là điều khó khăn.
Đâu dễ gì nắm bắt được cảm xúc thật của tác giả khi chữ nghĩa cô đọng, xúc tích
như thế. Ba trăm năm sau có người khóc Tố Như hay không thì chưa biết, nhưng
chắc chắn bây giờ thiên hạ đang phân phân tích, mổ xẻ từng đoạn, từng câu, từng
chữ trong “Đoạn trường Tân Thanh” và gán cho nó những ý tưởng mà khi làm thơ
chưa chắc gì Nguyễn Du đã nghĩ tới.
Ca từ trong nhạc Trịnh Công Sơn,
nếu đem ngắt câu xuống hàng thì chẳng khác gì bài thơ. Thú thật có nhiều ca từ
của ông tôi nghe thấy hay hay, nhưng chẳng hiểu gì cả. Cảm xúc khởi đầu từ ý và
nốt nhạc trộn lẫn, rồi sau đó, vần điệu đẻ ra ý hay ý đẻ ra vần điệu đây? Đoạn
ca từ nào trong bản nhạc là cảm xúc ban đầu? Nghe nói có người làm luận án về
ca từ trong nhạc Trịnh. Tài thật! Là một nghệ sĩ tài hoa, TCS có những cảm xúc
và tư duy về cuộc sống thể hiện qua nhạc phẩm của mình. Ông say xỉn tối
ngày. Kể cũng lạ, nhiều bài viết lại tìm thấy tính thiền, tính Phật trong nhạc
TCS.
Về bài thơ “Đây thôn Vỹ Dạ” của
Hàn Mặc Tử, một bài báo trên tờ “Người giáo viên nhân dân” cho rằng thôn
Vỹ là một ổ điếm, và Hàn Mạc Tử đã có công «phản ánh kiếp sống giang hồ, tố cáo tệ đoan của xã hội cũ,
trong một bài thơ hiện thực, nhân đạo, một tiếng thở dài đáng quý». Bó
tay!
Trong thưởng thức thơ ca, người
ta suy diễn nhiều hơn suy luận, và có khi còn thích “tự lừa còn sướng hơn mười tự do”.
Mới đây trên mạng hải ngoại có
bài “Trong thơ nên có… vú”. Dù
tác giả đã cố công “ngược thời gian Trung cổ (Les Troubadours) tìm về La Mã, Hy Lạp
để bàng hoàng trước cặp vú để trần của Propertius và Catullus, hoặc ngẩn ngơ
trước đôi gò của người đẹp Sappho…”, thậm
chí còn đi tìm vú trong kinh Cựu Ước. Rồi quay sang Đông phương, tìm trong văn
hóa Khổng Mạnh và Tam giáo, trong Kinh Thi, rồi trong văn hóa Môn-Khờme
và Mã Lai,… Thú thật, đọc đi đọc lại vài lần, tôi chẳng thấy cái vú trong thơ
mang tính nhục cảm nó đẹp chỗ nào.
Cái vú có đẹp không? Đẹp chứ, dù
đó là trái đào hay quả mướp. Khi tôi được 6 tháng tuổi. Mẹ tôi phải trải qua
một giải phẩu lớn ở nhà thương. Tôi không chịu bú bình, sữa Guigoz hay
Nestle gì cũng mặc, bú rình cũng chê. Mấy bà chị chăm tôi, đành phải mớm đồ ăn
vặt của mấy bả cho tôi. Tôi sống sót nhờ… đậu đỏ bánh lọt. Mẹ tôi về nhà, làm
gì còn sữa cho tôi bú, nhưng khi bà ôm tôi vào lòng, tôi lại chịu bú bình: tôi
nhớ hơi mẹ. Có chuyện này, nói ra hơi… xấu hổ tí, đó là tối ngủ tôi cứ rúc vào
lòng mẹ tôi và rờ… vú mẹ, mãi cho đến khi 8-9 tuổi, tôi mới bỏ thói quen này vì
bị chọc quê nhiều quá. Mẹ tôi cũng chẳng phiền hà gì, có lẽ bà thương cảm cho
thằng con mới 6 tháng tuổi đã bị cai sữa cưỡng bức.
Lớn lên, mỗi khi nhìn hình ảnh em
bé bú mẹ, tôi lại thấy tuyệt đẹp và thánh thiện quá. Nhân loại thái bình không
phải ở bầu sữa mẹ sao? Lắm lúc tôi nghĩ, cần gì phải xử bắn hay treo cổ mấy tên
diệt chủng. Bắt chúng về nhà bú sữa mẹ để chúng hiểu thế giới này cần an bình
thế nào. Tôi cũng nghiệm ra một điều, những thằng sờ vú mẹ dai như thế suốt đời
chẳng bao giờ trưởng thành nổi.
Đi tìm cái đẹp nhục cảm “trong
thơ có vú” thì tôi chịu thua trước cho… cao cờ.
Cô đơn có thật, nỗi buồn có thật,
nhưng nhiều khi qua thơ văn, nó bay bổng và gia vị nhiều quá, rồi trở thành cô
đơn hoang tưởng, nỗi buồn hoang tưởng. Mấy ai kiếm sống được bằng thơ đâu. Ai
mua thơ, tôi bán thơ cho. Rao bán nỗi niềm mà lắng nghe hụt hẫng thì buồn biết
mấy.
Cách đây vài năm, sau một bữa
tiệc kinh doanh, tôi được mời đến vũ trường giải trí tăng hai. Một cô gái đến
mời tôi nhảy. Tôi ấp úng: “Xin lỗi, chân tôi bị… vọp bẻ”. Tôi chỉ mới “bị vọp
bẻ” ngay khi được mời nhảy. Ừ, không biết nhảy thì ngồi xem thiên hạ nhảy.
Tiếng nhạc ầm ầm, ánh đèn chớp tắt theo điệu nhạc, vũ điệu quay cuồng, tất cả
những thứ này dường như lệch pha, làm cử động của người nhảy trông như bị cà
giựt, đứt quãng. Khuôn mặt của họ như bị biến dạng, tôi không biết họ đang
cười, đang khóc, hay đang nói. Chỉ thỉnh thoảng lắm, tôi mới thấy được khuôn
mặt thật của họ với những biểu cảm qua ánh chớp.
Bây giờ tôi đã tiến bộ, đã tập
tành nhảy chút chút cho ra cái điều văn minh với người, cũng slow rock,
cũng rumba,… Nhảy đại, không dẵm chân ta, thì chân người, như tập dưỡng sinh
vậy thôi. Nhưng tôi vẫn còn sợ ánh đèn vũ trường, sợ trong hàng ngàn ánh
đèn chớp tắt liên tục, tôi bỏ lỡ cơ may trong muôn một, nhận diện được khuôn
mặt đích thực của con người.
Cảm nhận về thơ của tôi cũng vất
vả như thế. Tôi sợ sự ảo diệu của ngôn từ sẽ che khuất đi những cảm xúc thật sự.
Mỗi bài thơ là một bông hoa. Tôi
như người mù, làm sao có thể chạm tay tới nỗi niềm của những bông hoa chỉ có
sắc mà không có hương.
-------------------------
* nguồn: xunau.org
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét