KỲ 58
Nghe nói Nguyễn Đình Thi đã viết "Xung kích" ở
đây
Tuy nhiên, tác phẩm
xuất sắc nhất trong thời kỳ chống Pháp, làm NĐT có thể rung đùi yên trí “hoàn
thành chỉ tiêu sáng tác” trên “mặt trận cầm bút” theo đúng yêu cầu của “bác Hồ”:
“mỗi nhà văn cũng là một chiến sĩ” lại là một “tiểu thuyết” đã được đưa vào
sách giáo khoa cho không biết bao nhiêu thế hệ con em chúng ta ngồi trên ghế
nhà trường phải phân tích và bình luận nhằm bồi bổ chủ nghĩa anh hùng cách mạng
của cả nhân vật trong truyện lẫn người viết ra nó.
Đó là “tiểu thuyết” “ Xung kích” – một trong những tác phẩm
đưa NĐT lên bục nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh, viết vào năm 1951 sau khi đã được
“quán triệt” sâu sắc “đề cương văn học Diên An” của Mao, tức những quy phạm
ngặt nghèo của chủ nghĩa hiện thực XHCN phục vụ công nông binh đã hằn sâu trong
quả tim và cả khối óc của nhà văn.
Gọi là “tiểu thuyết” nhưng cũng chỉ vỏn vẹn hơn 100 trang
in, trong đó chương mở đầu “tường thuật” dân công, bộ đội hành quân tới cái cầu
qua suối nhỏ bị sập giữa trời rét cắt thịt. Không lẽ nằm chờ công binh tới bắc
cầu như chị em dân công; bộ đội nảy sáng kiến “chuổng cời” lội suối, nước dâng
ngang ngực, nhờ vậy đến được điểm tập kết đúng thời hạn. Chuyện có vậy thôi mà
ông nhà văn “cà kê” mất gần chục trang.
Rồi trước lúc vào trận, bộ đội tập trung nghe thư “bác Hồ”,
ông nhà văn cũng bê nguyên si thư Bác:
“Chiến dịch này là lần đầu tiên đánh đồng bằng mà địch có
chuẩn bị. Chính vì lẽ đó mà ta quyết phải thắng... Nào đơn vị nào hứa với Bác
và Chính phủ sẽ lập nhiều công nhất nào? Chính phủ, đoàn thể và Bác đang chuẩn
bị sẵn sàng thưởng cho những chiến sĩ, cán bộ và đơn vị lập công to nhất…”.
Tất nhiên tiếng “xin hứa, xin hứa” phải vang như sấm. Chỉ có điều sao trong thư, “bác” không viết “Đảng, Chính phủ, và
Bác” mà lại viết: “Chính phủ, đoàn thể và Bác”? Đó là vì lúc này Đảng rút vào
“bí mật”, tuyên bố giải tán, thành lập “Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác” nên khi
nói tới lãnh đạo, phải đưa “chính phủ lên trước” rồi mới đến “đoàn thể” chứ chữ
“đảng” chưa được công khai nhắc tới như bây giờ.
Sau phần động viên "trong nước”, tới phần “quốc tế”:
Tiếng anh trung đoàn trưởng vang lên:
“Tôi báo tin để các đồng chí biết. Bên Triều Tiên, các bạn
chúng ta vừa mở cuộc tấn công mới, làm cho quân Mỹ lao đao. Chúng ta hứa với
Bác thi đua với chiến sĩ Triều Tiên, đánh thật mạnh để hưởng ứng với các bạn
chúng ta. Chúng ta hứa với Bác hôm nay không thắng không về…”.
Cứ như vậy, người đọc ngỡ ông nhà văn viết “báo cáo chiến
dịch” chứ chẳng phải tiểu thuyết. Tuy thế, trong “Xung kích” NĐT cũng “sáng
tác” ra nhiều nhân vật “anh hùng thời đại” để gắn nhãn “tiểu thuyết” cho nó.
Trước tiên là chú bé giao liên đại đội tên Lũy, khi máy bay
Pháp tới ném bom, “chú đứng bên cạnh bến nước, nhìn về mé có tiếng bom, hai tay
đút túi quần:
“Ăn thua mẹ gì. Chỉ chết mấy con ngan là cùng. Rời thằng Mỹ
ra thì ông bóp mũi…”.
Ghê gớm chưa, chú bé Việt Nam của NĐT xem ra thấm nhuần chính
trị tới mức lúc nói chơi cũng vạch rõ được “âm mưu can thiệp Mỹ”.
Giống như nhân vật chú nhóc Gavroche của văn hào Pháp Victor
Hugo trong Les miséables, “bóng loắt choắt của chú bé liên lạc vẫn thoăn thoắt
chạy đi giữa những tràng đạn lửa ngoằn ngoèo… Lũy đã chạy qua hết sân đồn, bỗng
đứng lại. Một thằng quan hai đang giơ tay từ một cái ngách nhỏ chui ra. Luỹ
thét “ra nhanh”. Thằng quan hai bỗng hạ tay xuống, sau lưng nó, một tràng tiểu
liên bắn ra. Bóng chú liên lạc lăn xuống đống gạch vụn… giữa trán nó, một lỗ
thủng sâu hoắm rỉ máu…”.
Người “tây học” như NĐT chắc đã đọc “Les misérables” và chú
bé giao liên Lũy hẳn đã được gợi ra từ chú nhóc Gavroche.
Một trong những nhân vật trung tâm cuốn tiểu thuyết là đại
đội trưởng Kha. Anh này chắc không xuất thân “bần cố nông” vì trong người có
chút máu tạch-tạch-sè (tiểu tư sản) nên trước khi ra trận còn muốn… diện đồ mới:
“Anh mở ba lô, tìm bộ quần áo mới, vải thơm sạch, thay vào
bộ nâu vẫn còn mặc trên người… Kha nghĩ: “Có chết mình cũng chết cho đẹp…”.
Mải mê khắc hoạ “nhân vật” cho có “cá tính” độc đáo, ông nhà
văn quên bẵng “cái chết đẹp” hiểu theo
lập trường cách mạng chỉ mang ý nghĩa “hy sinh cho Chính phủ, cho đoàn thể và
cho bác Hồ” chứ không phải quần áo đẹp, hình như sợ cấp trên quở, ông vội vàng
“sửa sai”:
“Cầm cái áo lên, anh bỗng nhìn thấy cái huy hiệu Thanh niên
dân chủ quốc tế…”.
Và anh đại đội trưởng vừa sa đà chút xíu vào “cá nhân chủ
nghĩa” vội vàng củng cố ngay lập trường cách mạng:
“Kha tháo huy hiệu xem kỹ: một quả địa cầu và mặt ba người
thanh niên trắng đen vàng. Chiều hôm nay ở đây sẽ lại có những người thanh niên
Việt Nam
chết cho thực hiện cái cảnh hòa bình thân ái ghi trên tấm huy hiệu này…”.
Tuy nhiên phải đợi tới giai đoạn 2 của chiến dịch, vào một
trận tấn công cứ điểm Pháp trên đồi, Kha mới chứng nghiệm dự cảm về cái chết
của mình. Trong trận đó, anh dẫn đầu đại đội tràn lên đánh địch.
“Một tiếng xoẹt, Kha nằm nấp xuống hố đạn. Đất xới lên lấp
chân Kha. Qua rồi, Kha nhảy lên miệng hố. Kha hét: “Xung pho… ong…”. Kha bỗng
choáng óc như bị một nhát búa. Đất lạo xạo đầy mồm. Tiếng trung liên tắc tắc.
Kha thấy mình nằm úp mặt xuống đất…”.
Bị trúng đạn rồi, Kha vẫn:
“Tay nắm chặt súng lục, Kha
cố đứng dậy đưa tay trái sang tìm vết thương. Sờ đến bả vai, thấy những ngón
tay dính nháp nong nóng. “À đây, máu chảy nhiều”… Luồng đạn qua mặt mát lạnh,
Kha như ra khỏi sương mù. “Không thể lui xuống lúc này được. Phải lên ngay cho
kịp anh em. Kha cắn răng chạy lên…”.
Thế rồi Kha lại nhận thêm một viên đạn vào cánh tay, anh vẫn
“quên hết hai vết thương ở vai và ở tay chỉ còn một ý nghĩ”. Chạy thẳng lên đồi
giết hết, giết hết…”.
Rồi anh lại bị một quả đạn cháy “khắp bên trái người cháy
bỏng, anh khụy xuống, ngáp ngáp cố thở. Kha vẫn không chịu ngất đi, tự bảo “cố
lên, cố lên…”.
Chỉ đến khi anh bị tiếp một quả đạn cháy thứ hai “cả người
Kha xèo xèo, Kha giãy giụa hai ba cái trong đám lửa…”, anh mới chịu gục ngã.
Tuy nhiên, ông nhà văn vẫn chưa cho phép nhân vật được chết.
Người anh hùng không thể chết câm lặng vậy được, cái chết đó phải được nhấn
mạnh góp phần đắc lực cho công tác giáo dục chính trị tư tưởng. Kha được khiêng
về trạm quân y chờ chính trị viên tới thăm.
“Trong đám sương mù liên miên, trí khôn đã lạc lõng của Kha
bỗng nghe thấy xa tít có tiếng gọi. “Kha ơi, Sản đây - Sản đây…”. (Sản là chính
trị viên) “Kha cuống quýt… mấp máy cặp môi phồng rộp, tưởng mình đang kêu to
mừng rỡ. Hai lòng trắng mắt động đậy. Bàn tay Kha giơ lên quờ quờ: “Ồ đồng chí
Sản, sao bây giờ anh mới tới? Ồ Sản… Thế nào? Tối hôm ấy thế nào?”. Sản nói to:
“Ta tiêu diêu diệt được toàn bộ quân địch ở dãy đồi. Tiêu diệt toàn bộ quân
đội…”.
Vậy là phút giây thiêng, anh đại đội trưởng Kha vẫn chờ tin
thắng trận, giống y chang anh đại đội trưởng trong truyện ngắn “Anh hùng cứ
điểm”, Nguyễn Đình Thi lại cũng viết: “Trước khi hy sinh, Còm còn thều thào hỏi:
“Vào đến đâu rồi?”.
Hơn hẳn anh đại đội trưởng Còm, sau khi nghe tin chiến
thắng, “Kha cười: “Tao lo quá mày ạ. Mày mà đổ thì cả chi bộ và đại đội lao
đao…”. Rồi Kha căn dặn người ở lại: “Đồng chí Na phải đề nghị huân chương chiến
sĩ hạng nhất mới xứng đáng. Nhấc lên làm trung đội phó…”. Vậy là tới lúc chết,
người anh hùng vẫn chưa được nghỉ ngơi, vẫn lo công việc tới hơi thở cuối cùng.
Cho tới khi chính trị viên ghé tai hỏi:
“Anh có điều gì dặn lại không?”.
Kha vội lắm, Anh còn ít thời gian lắm:
“Chào Đảng, các đồng chí… chi bộ…”.
Vậy là làm xong nhiệm vụ đảng viên trước khi chết rồi, Kha
mới dặn dò riêng tư:
“Sản nhớ cho Lý cái bật lửa… Hết”.
Chẳng hiểu sao, cứ trước lúc chết, các nhân vật anh hùng của
Nguyễn Đình Thi cứ phải tặng ai một kỷ vật gì đó, anh Còm thì gửi lại cho chú
giao liên chiếc đồng hồ đeo tay, anh Kha cũng gửi cái hộp quẹt cho cô bạn cũ
gặp lại trên đường hành quân. Có lẽ ông nhà văn muốn có thêm chút ít “chất
người” cho nhân vật, nếu không cứ dặn dò, cứ hô khẩu hiệu trước khi chết thì
“khô khan, người máy” quá chăng? Có điều ngay cả những chi tiết “tình người” đó
cũng khó xúc động lòng người vì sự khiên cưỡng và lặp lại.
KỲ 59
Hai nhà văn Tô Hoài và Nguyễn Đình Thi
(tiếp
theo)
Ở đại đội, “thủ trưởng quân sự” tức đại đội trưởng vẫn dưới
quyền “thủ trưởng chính trị” tức chính trị viên kiêm bí thư chi bộ. Đánh đấm ra
sao, tư tưởng thế nào, tuốt tuột thuộc quyền “quản lý” và quyết định của anh
chính trị viên. Bởi thế nhân vật quan trọng nhất trong “Xung kích” của Nguyễn
Đình Thi lại là anh chính trị viên tên Sản (chắc gợi từ “Cộng Sản”).
Sản “nắm” cán bộ chiến sĩ, “nắm” chủ trương chiến dịch,
chiến thuật, “nắm” lương thảo, vũ khí, “nắm” địa phương nơi đóng quân… Để thực
hiện chế độ ‘toàn trị’ của Đảng trong
quân đội, Sản phải nắm đủ thứ trên đời. Chính vì vậy trong lưng Sản lúc nào
cũng kè kè cuốn sổ ghi chép và họp hành liên miên:
“Mới mờ sáng, tới vị trí trú quân, Sản đã triệu tập các chi ủy
viên tới hội ý…”.
Hiền, một anh đại đội phó tố cáo:
“Tôi xin nhắc đồng chí bí thư vấn đề tiểu đội trưởng Tá… Càng
về gần dưới này, tinh thần càng xuống. Anh ta có lúc nhắc tới chuyện giải ngũ…”.
Sản cúi ghi trên sổ tay “Chú ý công tác cậu Tá…”.
Người bị tố cáo phải vào sổ đã đành, ngay cả người đứng ra
tố cáo cũng không thoát:
“Sản nghĩ: “Đồng chí Hiền cũng cần được theo dõi và giúp đỡ
hơn nữa. Còn hay dễ làm khó bỏ…”.
Có người nhắc:
“Đồng chí bí thư chưa bàn vấn đề tiền ăn…”.
Sản bỏ bút nhìn lên:
“Tôi ghi cả đây. Giải quyết sau. Bây giờ tôi nhắc các đồng
chí mấy điểm… Phải chuẩn bị ngay tinh thần cho bộ đội. Mọi việc phải gấp gáp
lên. Còn vấn đề bí mật… nhiều cậu phất phơ ngoài chỗ trú quân, diện quần áo Mỹ
giữa ban ngày, mua bán lung tung… Ngay cán bộ cũng coi thường bí mật. Đồng chí
Hiền sao không nguỵ trang? Đồng chí muốn bộ đội ăn bom dây à? Các đồng chí phải
về họp tổ mà chấn chỉnh ngay đi…”.
Cứ vậy, cái gì Sản cũng phải ghi, phải để mắt tới và phải
huấn thị quần chúng mới tròn nhiệm vụ chính trị viên.
“Sản ngồi với cuốn sổ tay đặt giữa đầu gối. Hai vai anh cúi
ép xuống lồng ngực. Những con số, những dòng chữ đầy mãi trang giấy…”.
Một chị cán bộ mới gặp thoáng trên đường cũng đã phải nhận
xét về chính trị viên Sản:
“Ông này chắc bộ đội khó giấu được ông ấy cái gì?”.
Giấu sao được, giấu là chết. Ngoài chuyện ghi chép tỉ mỉ,
dọc đường hành quân, Sản còn phải tranh thủ giáo dục tinh thần cách mạng thường
trực cho bộ đội:
“Anh chính trị viên giơ cái ống tay áo cụt chỉ những đồi cỏ
lau rậm rạp dưới ánh trăng, nói với mấy anh cán bộ trung đội:
“Vùng này là chỗ “căng” ngày xưa Pháp đem đày các đồng chí
mình đây…”.
Khi ra trận, Sản phải lo sao cho bộ đội người nào cũng “có
thư Bác cài trên mũ”, phải dặn dò đủ thứ:
“Các đồng chí xông lên đồn còn là dễ, mà làm thế nào đủ điều
kiện xông lên đồn mới là khó. Phải chú ý từ cái quai dép dây giày, túi cơm, cái
giẻ lau, cái hộp mỡ, từ cái nan tre làm thang…”.
Phải nêu cao tinh thần “quyết đánh” cho bộ đội, dù có thiếu
đạn dược vẫn cứ đánh:
“Phải làm cho tất cả anh em trong đại đội có tinh thần như chúng
ta (đảng viên). Là vì sẽ gay go, mệt, đói, vội, có thể thiếu cả vũ khí. Không
biết chừng không kịp có bộc phá. Không có, vẫn phải đánh được. Không kịp nghiên
cứu kỹ sa bàn, cũng phải đánh được…”.
Vậy là cứ có ý chí là đánh được tuốt, người lính cứ thế mà
xông lên bất chấp mạng sống của mình. Sau cùng, Sản còn phải thể hiện rõ vai
trò gương mẫu bằng thề thốt:
“Đảng đã dậy chúng ta: người đảng viên bao giờ lời nói cũng
đi đôi với việc làm. Tôi xin hứa với chi bộ, nếu tôi không tròn nhiệm vụ trong
trận này, tôi sẽ không đem cái mặt nhọ mà về trước đoàn thể…”.
“Thủ trưởng chính trị” bao giờ cũng to hơn “thủ trưởng quân
sự”. Khi lâm trận, anh đại đội trưởng muốn ra cái lệnh gì cũng phải nhất nhất
thông qua chính trị viên:
“Đánh thế nào? Kha (đại đội trưởng) nhìn bức tường dựng đứng.
Ít ra là tám chín thước cao. Cho là ba tầng nhà. Phải chập thang, chồng người
mà lên. Rồi từ lô cốt đã chiếm đánh tỏa ra. Kha quay lại Sản: “Bây giờ cho hai
trung đội chiếm trên mái?”. “Sản gật”.
Sản gật rồi Kha mới được phép thực hiện. Vậy là ngay cả
trong chiến đấu, mọi mệnh lệnh phải được đại diện Đảng thông qua rồi mới được
phát ra. Chính trị viên quyền lớn, trách nhiệm cao như thế nên ắt phải là con
người… đặc biệt. Bởi thế đại đội trưởng Kha đã nhận xét về chính trị viên Sản:
“Ai được như nó? Có lẽ nó chưa biết tuổi trẻ là gì? Lúc
sáng, ở trung đoàn về nhìn thấy Sản ngủ, mặt hóp lại, mắt nhắm im. Kha giật
mình. Nó mở hai mắt đờ ra nhìn Kha mấy giây như nhận không ra rồi mới chớp chớp
mấy cái…”.
Hóa ra ngay trong giấc ngủ, anh chính trị viên cũng vẫn phải
làm công tác “nắm tình hình”.
Trong lịch sử loài người, xuất hiện sớm nhất là thày tu và
cô điếm rồi sau mới đến các loại phù thủy, nhà hiền triết, thợ thủ công, nông
dân… Tuy nhiên phải đợi đến khi chủ nghĩa cộng sản xuất hiện, dùng bạo lực cướp
chính quyền, nhân vật “chính ủy” mới ra đời trước hết ở Liên xô, Trung Quốc,
Bắc Triều Tiên rồi Việt Nam. Đó thực sự là hạt nhân của các đảng cộng sản nắm
súng đạn, nắm quần chúng huy động nhân tài vật lực vào bạo lực cách mạng cướp
quyền dân.
Mang vai trò và phẩm chất đặc biệt như vậy, “chính ủy” về lý
thuyết phải xuất thân công nhân thì mới “có ý thức tổ chức, có tinh thần kỷ
luật”. Nắm vững yêu cầu đó, Nguyễn Đinh Thi đã không chọn nông dân hoặc tiểu tư
sản mà chọn công nhân mỏ làm thành phần xuất thân cho chính trị viên. Sản đúng
y chang đường lối giai cấp trong xây dựng quân đội của Đảng. Bởi thế cái tâm
niệm “người vô sản vùng lên tranh đấu chỉ mất có gông xiềng mà được cả thế giới”
đã ăn vào cả trong giấc mơ của anh chính trị viên:
“Ngày nào được đánh về vùng mỏ, gặp chúng nó (bạn bè công
nhân cũ) thì sướng đến thế nào. Tương lai kháng chiến thành công rồi, chắc đoàn
thể lại cho Sản về một nhà máy, nhà máy bấy giờ sẽ là của ta, Sản chỉ ao ước có
thế…”.
Hóa ra “người nô lệ vùng lên tranh đấu” “chỉ ao ước có thế”
mai kia giành thắng lợi, chẳng cần tới cả thế giới, chỉ mong có trong tay một
nhà máy làm chủ thỏa nỗi khổ nhục làm công nhân ngày xưa. “Người anh hùng” dù
cho được vẽ vời cao đẹp đến mấy, vẫn thò ra cái đuôi hám chức quyền.
Chính trị viên đại đội đã như một “thượng đế toàn năng”, vậy
còn lính tráng thì sao?
Cho dù bộ đội đã được tổ chức thành trung đội, tiểu đội
nhưng để việc “quản lý” thêm chặt chẽ, Đảng đã thiết lập “tổ 3 người” theo chế
độ “tam tam chế” của bác Mao để “quản lý” và “dò xét” lẫn nhau.
Trong “Xung kích”, tổ tam tam tiêu biểu là Thông, Cốc và Mẫn
– 3 anh lính cấp chót bét trong đại đội thường xuyên “để ý” và “bắt bẻ” nhau.
“Thông quay lại Mẫn:
“Cậu công tử lắm. Bớt ngắm vuốt đi. Soi gương luôn trông sốt
ruột lắm. Mà có được thấy đàn bà con gái đếch đâu mà diện. Ban đêm thì đi như
gió. Ngày lại rúc vào bụi rậm. Cái áo Mỹ ấy cũng đừng vác ra ban ngày nữa. Dân
làng người ta trông thấy còn đếch đâu là bí mật…”.
Rồi “Thông bảo Cốc:
“Thằng Mẫn phải để ý thế nào mới được. Có lẽ cậu phải gần
nó, nói chuyện luôn, giác ngộ cho nó…”.
Trong sinh hoạt ngày thường, “tổ tam tam” tăng cường “giám
sát” nhau:
“Thông vừa mài dao vừa liếc mắt nhìn Mẫn. Biết ngay là cậu
ta đang muốn nhớ nhà. Hé ra một câu là cu cậu cắn ngay. Chưa về quê được cậu
ơi. Còn là đánh…”.
Trong tổ tam tam, còn gọi là “tổ keo sơn”. Thông là người
“vững lập trường nhất”. Ngay cả cái “tàu điện của Tây” anh cũng dè bỉu
“ ước mẹ gì, nó lại cho vài cái đầu tàu điện thải ở cái xó
nào bên Tây chứ gì?”.
Và anh mơ ước:
“Sau này Hà Nội thể nào chả có tàu điện. Mình làm ngầm dưới
đất theo lối Liên xô kia chứ? Đánh Tây đánh tiếc xong chỉ xin đoàn thể cho về
Hà Nội lái tàu điện ngầm là sướng nhất…”.
Ước mơ về thiên đường cộng sản ghê gớm chưa? Chỉ có điều
vĩnh viễn cái tàu điện ngầm “theo kiểu Liên xô” ấy sẽ chẳng còn có cơ hội xây
dựng ở Hà Nội.
Nhân vật thứ hai trong tổ tam tam là Cốc, “bồ côi từ nhỏ,
lớn lên là đứa trẻ ăn mày ăn xin đầu làng cuối chợ… Những ngày cách mạng tháng
Tám, Cốc sướng nhất, Cốc được vào thanh niên… tập tự vệ rồi đi bộ đội…”. Còn
lại là Mẫn, em út trong tổ 3 người thường bị “uốn nắn” cũng lại xuất thân từ
một làng quê bên bờ sông Thao.
Vậy là từ sĩ quan tới lính tráng trong “Xung kích” của
Nguyễn Đinh Thi đều là những nông dân, công nhân nghèo khổ bị phong kiến và đế
quốc bóc lột tới tận xương tủy. Thế còn những học sinh, sinh viên, công chức,
những trí thức thành thị đã tham gia bộ đội đã đóng góp rất lớn ngay từ những
ngày đầu đánh Pháp đâu cả rồi?
Chắc chắn không phải ông Nguyễn Đinh Thi vô tình quên họ mà ông tâm niệm “quân đội ta” phải là “nông dân mặc
áo lính” – muốn văn vẻ ra sao, ông không
được quên nguyên tắc đó khi viết tiểu thuyết đề tài bộ đội như “Xung kích” cho
dù ông đã cướp công của bao nhiêu sinh viên, học sinh, con em các gia đình khá
giả ở Hà Nội đã vì lòng yêu nước chống ngoại xâm mà đổ máu trên các chiến
trường.
(còn nữa)
------------------------
* nguồn: blog nhattuan
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét