TT
- Tôi biết nhà văn Nguyễn Mộng Giác lâm trọng bệnh đã mấy năm, nhưng sáng 3-7
nghe nghệ sĩ nhiếp ảnh Nguyễn Khoa Quả báo tin anh vừa qua đời tại Mỹ, vẫn cứ
cảm thấy thảng thốt.
Thảng
thốt, vì ấn tượng hai lần trò chuyện với anh tại Huế quá đậm nét - thì đó, một
ngày thu năm 2004, sau khi bị cắt một phần lá gan, anh trở lại thăm Huế, cùng
với vợ là cựu nữ sinh Đồng Khánh Diệu Chi (em ruột Nguyễn Khoa Quả); tôi dẫn
anh đến phòng trưng bày mẫu tượng anh hùng dân tộc Quang Trung - nhân vật chính
trong trường thiên tiểu thuyết Sông Côn mùa lũ...
Nhìn
vóc dáng đậm đà, cái trán cao bóng loáng và nụ cười mỉm hiền lành của anh bên
mẫu tượng Quang Trung, tôi cứ nghĩ con người ấy còn “trụ” được lâu. Và cuộc đời
vẫn thường có những điều kỳ diệu. Như anh đã hoàn thành 2.000 trang Sông Côn
mùa lũ vào thời kỳ cả nước thiếu đói (1978-1981), lúc anh suốt ngày phải kiếm
ăn tại tổ hợp mì sợi Dân Sinh ở Phú Lâm; và chuyện chị Diệu Chi mang cả “núi”
bản thảo ấy sang Mỹ cũng là điều kỳ diệu...
Những
người góp nhiều công sức để Sông Côn mùa lũ đến tay bạn đọc VN đều đánh giá
cuốn sách là “hay và hấp dẫn”, “đáng mặt là tiểu thuyết theo cái nghĩa cổ điển
của từ này”. Trong lời giới thiệu bộ tiểu thuyết, nhà thơ Đỗ Minh Tuấn viết:
“Nguyễn Mộng Giác đã tỏ ra là một ngòi bút tiểu thuyết lịch sử xuất sắc khi
phân tích và tái hiện huyền thoại lịch sử bằng cái nhìn văn hóa và cái nhìn thế
sự. Những chuyện tình của Nguyễn Huệ, những bê bối của vương triều, những cưu
mang nghĩa hiệp và bối rối cũng như những sóng gió gia đình, những tâm sự buồng
the không làm mất đi ánh hào quang của người anh hùng, mà trái lại, làm cho
Nguyễn Huệ trở nên lớn lao hơn, gần gũi ta hơn như một con người cụ thể đầy
những lo toan trần thế và đầy thủy chung ân nghĩa”.
Nhưng
Nguyễn Mộng Giác không chỉ có Sông Côn mùa lũ (NXB Văn Học và Trung tâm Nghiên
cứu quốc học ấn hành năm 1998, tái bản năm 2002). Nhân đây xin cung cấp thêm
một số tư liệu về những tác phẩm của ông viết trước năm 1975: Nỗi băn khoăn của
Kim Dung (tiểu luận), Bão rớt (truyện ngắn), Tiếng chim vườn cũ (truyện dài),
Qua cầu gió bay (truyện dài), Đường một chiều (truyện dài); các tác phẩm sau
năm 1975: Ngựa nản chân bon (truyện ngắn), Xuôi dòng (truyện ngắn), Nghĩ về văn
học hải ngoại (tiểu luận)...
Trong
lần gặp tôi trước đó, ông cho biết đang khởi thảo cuốn tiểu thuyết về lớp người
Việt định cư ở nước ngoài. Nhưng một người cẩn thận chữ nghĩa như ông, chắc là
tác phẩm đã phải bỏ dở...Ông cũng không còn dịp trở lại Huế để xem bức tượng
Quang Trung hoành tráng đã sừng sững bên núi Bân, mà ông đã góp ý là “một ông
vua trí dũng song toàn như Nguyễn Huệ không cần cây kiếm dài quá...”.
Cho
dù vậy, tôi tin là hôm nay (5-7), khi chùa Ba La Mật (Phú Vang, Thừa Thiên -
Huế) làm lễ tưởng niệm ông thì vong linh ông sẽ “bay” về với bà con họ Nguyễn
Khoa...
Một
nhà văn nặng lòng với đất nước sẽ mãi mãi không xa cách chúng ta...
-------------------------------
* nguồn: tuoitre online 5.7.12
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét