Chủ Nhật, 3 tháng 6, 2012

chân dung hay chân tướng nhà văn [kỳ 1-2] - nhật tuấn

                                                          
KỲ 1



Năm 1992 một sự kiện ầm ĩ nổ ra trong giới xuất bản. Chuyện bắt đầu từ tập thơ “Lên chùa” của nhà thơ Xuân Sách vốn được sáng tác lai rai từ 30 năm trước. Vào một dịp thăm Xuân Sách ở Vũng Tàu, tướng Trần Độ ghi âm Xuân Sách đọc gần 100 bài thơ này. Cuối năm 1992, nhà văn Hoàng Lại Giang lúc đó là Trưởng Chi nhánh NXB Văn Học tại TP HCM được nghe cuốn băng này và đề nghị Xuân Sách cho xuất bản với tên “CHÂN DUNG NHÀ VĂN”.
Mặc dầu NXB Văn học đã phải rào trước đón sau trong lời nói đầu:
“Chúng tôi chỉ coi đây là những nét tự trào của giới cầm bút Việt Nam. Cười đấy nhưng cũng tự nhận ra những xót xa, hạn hẹp của chính mình, những gì chưa vượt qua được trên chặng đường quanh co của lịch sử và thời đại. Tự soi mình hoặc hiểu mình thêm qua cái nhìn của người cùng hội, cùng thuyền lắm khi cũng hữu ích. Cái cười trong truyền thống dân gian vốn là vũ khí. Ngày nay còn có thể là sức mạnh thúc đẩy đi tới phía trước.Với ý nghĩ ấy, chúng tôi mong bạn đọc và các nhà văn thông cảm cho những gì bất cập hoặc chưa lột tả được thần thái của từng chân dung. Dù sao đây cũng là 100 bức tranh nhỏ về những người có công trong văn học, những người nổi tiếng trong làng văn, trong bạn đọc, bằng chính những tác phẩm có giá trị của mình. Bạn đọc và thời gian đã là người đánh giá chính thức và công bằng nhất đối với họ. Rất mong độc giả và các nhà văn nhận ra mối chân tình trong cuộc vui của làng văn, và lượng thứ cho những khiếm khuyết.
Nhưng khi sách in xong, chưa kịp phát hành, nhà văn Hoàng Lại Giang cho biết: "Phản ứng của nhà văn rất lớn, và đấy là điều tôi không ngờ đến. Những nhà văn lớn có bản lĩnh, họ chịu đựng nổi, im lặng. Nhưng những nhà văn tầm tầm, lồng lộn, rất gay gắt yêu cầu Bộ Văn hóa kiểm điểm và thu hồi".  
Một cuộc họp của Bộ Văn hóa diễn ra, với năm đại diện: Ba thứ trưởng (Phan Hiền, Huy Cận, và Nông Quốc Chấn), đại diện Hội Nhà văn Vũ Tú Nam, cùng Giám đốc NXB Văn học Lữ Huy Nguyên quyết định không thu hồi nhưng niêm phong số bản in 3000 cuốn. 20 năm sau, cho tới tận bây giờ, số sách này vẫn bị chôn dưới hầm cầu thang chi nhánh NXB Văn Học tại 290/20 Nam kỳ Khởi  nghĩa Q3 TP HCM, chắc đã làm mồi cho mối.
Trước hết, hãy nghe nhà thơ Xuân Sách tâm sự về cái “cảm hứng chủ đạo” khi viết tập thơ “Lên chùa” sau đổi thành “Chân dung nhà văn":
“Trước đây khi còn là lính ở địa phương, cái xã hội nhà văn đối với tôi đầy thiêng liêng bí ẩn. Đây là những con người dị biệt rất đáng ngưỡng mộ, rất đáng yêu mến, dường như họ là một siêu tầng lớp trong xã hội. Mỗi cử chỉ, mỗi hành động, lời nói của họ có thể trở thành giai thoại, và cả tật xấu nữa dường như cũng đứng ngoài vòng nhận xét thông thường... Tóm lại đó là thế giới đầy sức hấp dẫn đối với người say mê văn học và tấp tểnh nuôi mộng viết văn như tôi".
Nhưng rồi khi tiếp cận với họ, ông cảm thấy "vỡ mộng":
“Khi tôi được về Hà Nội vào cơ quan văn nghệ dù là ở quân đội (hoàn cảnh nước ta quân đội có vị trí đặc biệt trong xã hội kể cả lĩnh vực văn chương), tôi bắt đầu đi vào cái thế giới mà trước kia tôi mơ ước".  
Điều tôi nhận ra là, ngoài cái phần tôi hiểu trước đây, thì thế giới nhà văn còn có những chuyện khác. Đó là cái mặt đời thường, cái mặt rất chúng sinh, và chúng cũng góp phần quan trọng làm nên các tác phẩm và tính cách nhà văn… Khi tôi đã tìm hiểu được những ứng xử, những tính cách của những nhà văn, ngoài những tác phẩm mà tôi thường ngưỡng mộ, tôi cứ băn khoăn tự hỏi:  ''Sao thế nhỉ, với bề dày tác phẩm như thế, với vị trí trong xã hội như thế, trong lòng người đọc như thế, sao họ còn ham muốn những thứ phù phiếm đến thế... Một chức vụ, một quyền lực, một chuyến đi nước ngoài... Mà đã ham muốn thì phải mưu mẹo, phải dối trá và nhất là phải sợ hãi''. Vì vậy chân dung của họ không thể bỏ qua. Hơn nữa, nếu ''Vẽ'' được chính xác những chân dung đó, thì bộ mặt xã hôi thời đại mà họ đang sống cũng qua đó mà hiện lên".
Và thế là Xuân Sách đặt bút viết tập thơ “Lên chùa” hàm ý gặp 100 pho tượng tức 100 chân dung ở đó. Nhà thơ Xuân Sách kể lại:
“Hồi đó Hồ Phương đã là tác giả in nhiều tác phẩm đã được giải thưởng các cuộc thi sáng tác văn học. Tôi dùng tên các tập truyện ngắn của anh ''Trên biển lớn'', ''Xóm mới'', ''Cỏ non'' và tên cái truyện đầu tay được nhắc đến:''Thư Nhà''. Tôi viết bài thơ ra mẩu giấy:
 Trên Biển lớn lênh đênh sóng vỗ
 Ngó trông về xóm mới khuất xa
 Cỏ non nay chắc đã già
 Buồn tênh lại giở thư nhà ra xem.
 Tôi đưa bài thơ cho Nguyễn Khải. Anh đọc xong trên mặt có thoáng chút ngạc nhiên và nghiêm nghị chứ không cười như tôi chờ đợi. Anh bỏ bài thơ vào túi chứ không chuyển cho người khác. Đến giờ giải lao chúng tôi ra ngồi cạnh gốc cây sấu già, Nguyễn Khải mới đưa bài thơ cho Hồ Phương. Mặt Hồ Phương hơi tái và cặp môi mỏng của anh hơi run, Nguyễn Khải nói như cách sỗ sàng của anh:
- Thằng này (chỉ tôi) ghê quá, không phải trò đùa nữa rồi!
Tôi hơi hoảng, nghĩ rằng đó chỉ là trò chơi chữ thông thường. Sau rồi tôi hiểu ngoài cái nghĩa thông thường, bài thơ còn chạm vào tích cách và đánh giá nhà văn. Mà đánh giá nhà văn có gì quan trọng hơn tính cách, và tác phẩm. Bài thơ ngụ ý, Hồ Phương có viết nhiều chăng nữa cũng không vượt được tác phẩm đầu tay và vẫn cứ ''Buồn tênh lại giở thư nhà ra xem''!
Bài thơ về Hồ Phương đã trở thành bài đầu tiên mở đường cho vệt thơ “Lên Chùa” trong suốt 30 năm của Xuân Sách.
Mùa xuân năm Nhâm Thân (1992), vào dịp lần đầu tiên xuất bản tập thơ ông phát biểu:
“Nói về đồng nghiệp cũng là nói về mình. Cái hay cái dở của một người cũng là của một thời. Câu thơ “Từ thủa tóc xanh đi vỡ đất. Đến bạc đầu sỏi đá chưa thành cơm” đâu chỉ là số phận của một nhà thơ. Hơn ai hết, tôi nghĩ, nhà văn là đại diện của một thời, là lương tri của thời đại. Đã đành là khó ai vượt được thời đại mình đang sống, không dễ nói hết, nói công khai những điều suy nghĩ. Nhưng cũng thật đau lòng và xấu hổ khi những nhà văn bán rẻ lương tâm, còng lưng quỳ gối trước quyền uy, mê muội vì danh lợi. Có lẽ đó là động cơ thúc đẩy tôi viết, nếu có nói quá cũng dễ hiểu. Cái con quỷ ám nếu có thì cũng là ảnh hưởng những cảm xúc ấy, nỗi đau chung ấy. Nhiều nghịch lý vốn tồn tại trong cuộc đời cũng như nghệ thuật. Tiếng cười nhiều khi xuất phát từ nỗi đau ! Những bài thơ chân dung đã có cuộc sống riêng của nó. Không phải kỳ lạ nhưng cũng độc đáo. Nó được lan truyền đến nay đã 30 năm. Đã có nhiều bài ''khảo dị'', nhiều bài "ngoài luồng" cũng được gán cho tác giả, bây giờ in ra cũng coi như một sự đính chính. Nó cũng là ''một cái gì đó'', như có người đã nói nên mới tồn tại được, nếu có ích thì tác giả lấy làm mãn nguyện.
Và chính với “cảm hứng chủ đạo” có phần thất vọng về phẩm chất nhà văn, tuy Xuân Sách gọi là viết “chân dung” mà thực ra ông đã vạch trần "chân tướng" nhà văn vậy.
Ông tên thật là Ngô Xuân Sách, sinh ngày 4-7-1932 tại Trường Giang, Nông Cống, Thanh Hóa. Năm 1960, ông bắt đầu công tác tại tạp chí Văn Nghệ Quân Đội. Từ năm 1981 đến năm 1986, ông làm Phó Giám đốc Nhà xuất bản Hà Nội. Năm 1987, ông chuyển vào làm Chủ tịch Hội Văn nghệ Bà Rịa – Vũng Tàu đến năm 1997. Đầu năm 2008, nhà thơ Xuân Sách chuyển ra Hà Nội sống với con gái để có điều kiện chữa bệnh suy gan và suy thận. Thế nhưng, do tuổi cao sức yếu, sau mấy ngày nằm ở bệnh viện, khuya ngày 2-6 nhà thơ Xuân Sách đã lặng lẽ từ biệt cõi đời! 
Đọc Xuân Sách trước tiên ta cảm phục lòng dũng cảm của ông. Văn học Việt Nam vào những năm “trời đất nổi cơn gió bụi”, những năm thập kỷ 1970, xã hội còn chìm đắm trong nền kinh tế bao cấp, văn hóa văn nghệ bị "quản lý" đến nghẹt thở vậy mà Xuân Sách cả gan vạch trần chân tướng của tất cả những văn thi sĩ đang cúc cung tận tuỵ  hiến dâng tài năng và tâm huyết cho… Đảng, cho chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa.
 

Đầu sổ là nhà thơ Tố Hữu, chủ soái của văn hóa nghệ thuật của Đảng, Xuân Sách vẫn không sợ, vẫn xỏ xiên:
“Ta đi tới đỉnh cao muôn trượng
Mắt trông về tám hướng phía trời xa
Chân dép lốp bay vào vũ trụ
Khi trở về ta lại là ta

Từ ấy tim tôi ngừng tiếng hát
Trông về Việt Bắc tít mù mây
Nhà càng lộng gió thơ càng nhạt
Máu ở chiến trường, hoa ở đây…”.

Với nhà thơ Chế Lan Viên, thi sĩ “nghĩ trong những điều Đảng nghĩ”, Xuân Sách thằng tay ra đòn:
Điêu tàn ư? Chả phải điêu tàn đâu
Anh đã tính Vàng Sao từ độ ấy
Chim báo bão gió chiều nào che chiều nấy
Lựa ánh sáng trên đầu mà đổi sắc phù sa

Trước 1945, nhà phê bình Hoài Thanh nổi tiếng với cuộc tranh luận “ nghệ thuật vị nghệ thuật  nghệ thuật vị nhân sinh ”, từ sau cách mạng chỉ còn là một anh hề đồng “ca ngợi cấp trên”, bởi thế Xuân Sách hạ bút:
“Vị nghệ thuật nửa đời người
Nửa đời sau lại vị người cấp trên
Thi nhân còn một chút duyên
Lại vò cho nát lại lèn cho đau
Bình thơ tới thủa bạc đầu
Vẫn chưa thể tất nổi câu nhân tình
Tàn canh tỉnh rượu bóng mình cũng tan”.

Nhà văn Nguyễn Tuân trước cách mạng nổi đình đám với “Vang bóng một thời”, nhưng từ sau cách mạng ông tự tước bỏ gai góc, xù xì để trở thành một nhà văn chỉ “ngợi ca chế độ”:
Vang bóng một thời đâu dễ quên
Sông  Đà cũng muốn đẩy thuyền lên
Chén rượu tình rừng cay đắng lắm
Tờ hoa lại chút lệ ưu phiền”.

Nhà thơ Lưu Trọng Lư, "con nai vàng" đã thành “vờ ngơ ngác” để  leo  lên tới chức Vụ trưởng Vụ văn nghệ:
“Em không nghe mùa thu
Mùa thu chỉ có lá
Em không nghe rừng thu
Rừng mưa to gió cả
Em thích nghe mùa Xuân
Con nai vờ ngơ ngác
Nó ca bài cải lương…”.

Nhà thơ Huy Cận  ngày xưa với "Lửa thiêng", từ sau khi đi theo cách mạng, thơ ông cũng “nói dối”:
“Các vị La hán chùa Tây Phương
Các vị gầy quá còn tôi thì béo
Năm xưa tôi hát vũ trụ ca
Bây giờ tôi hát đất nở hoa
Tôi hát chiến trường như trảy hội
Đừng nên xấu hổ khi nói dối
Việc gì mặt ủ với mày chau
Trời mỗi ngày lại sáng có sao đâu?”.
 
Nhà thơ Xuân Diệu ngày xưa có "Thơ thơ", nay thì:
"Hai đợt sóng dâng Một khối hồng
  Không làm trôi được chút Phấn thông
  Chao ơi Ngói mới, nhà không mới
  Riêng còn chẳng có, có gì Chung".
 

Nhà văn Nguyễn Đình Thi tuy làm quan cách mạng nhưng vẫn viết “con nai đen” ngụ ý xỏ xiên:
Xung kích tràn lên nước vỡ bờ
Đã vào lửa đỏ hãy còn mơ
Bay chi mặt trận trên cao ấy
Quên chú nai đen vẫn đứng chờ…”.

Nhà văn Tô Hoài chỉ được “con dế mèn” từ thời trước cách mạng, sau đó “tàn phai” trong những tác phẩm viết phục vụ cách mạng:
Dế mèn lưu lạc mười năm
Để o chuột phải ôm cầm thuyền ai
Miền Tây sen đã tàn phai
Trăng thề một mảnh lạnh ngoài đảo hoang”.

Nhà văn Nguyên Hồng nổi tiếng với Bỉ vỏ , đi với cách mạng viết khá nhiều tiểu thuyết "đồ sộ" về số trang nhưng chẳng mấy giá trị:
Bỉ vỏ một thời oanh liệt nhỉ
Sóng Gầm sông Lấp mấy ai hay
Cơn bão đã đến dộng rừng Yên Thế
Con hổ già uống rượu giả vờ say…”.

Nhà văn Nguyễn Công Hoan ngày xưa với Kép Tư Bền từ sau cách mạng thì hết lộc trời, còn lại chỉ viết truyện lăng nhăng:
“Bác Kép Tư Bền rõ đến vui
Bởi còn tranh tối bác nhầm thôi
Bới trong đống rác nên trời phạt
Trời phạt chưa xong bác đã cười..”.

Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh ngày xưa nổi tiếng làm thơ bí hiểm với câu thơ “nhài đàn rót nguyệt vú đôi thơm”. Than ôi từ ngày đi theo cách mạng, ông “làm công tác Hội” nhiều hơn  làm thơ:
“Xưa thơ anh viết không người hiểu 
Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà
Nay anh chưa viết người đã hiểu
Sắp sáng thì nghe có tiếng gà…”.

Nhà văn Ngô Tất Tố sau cách mạng thời gian cầm bút ngắn ngủi cũng chưa làm nên dấu mốc nào sau “Tắt đèn”:
“Tại ba thằng mõ cỡ chuyên viên
Chia xôi chia thịt lại chia quyền
Việc làng việc nước là như vậy
Lộn xộn cho nên phải tắt đèn...".
Cứ như vậy, không chừa một ai, từ những cây đại thụ trong rừng văn chương cách mạng cho tới những thế hệ sau, chỉ bằng một khổ thơ ngắn, bằng những cái tựa sách, Xuân Sách đã tạc nên bức chân dung chân thực hơn bất cứ một luận đề tâng bốc nào của mấy anh phê bình văn học “ăn theo nói leo”.





KỲ 2


 Nhà thơ Nguyễn Bính, tham gia cách mạng từ 1947, về Hà nội năm 1954, làm báo tư nhân Trăm hoa từ năm 1956. Thời đó, báo của Nguyễn Bính là cái gai đối với các nhà lãnh đạo văn nghệ. Ông “cả gan” chê thơ Tố Hữu và Xuân Diệu: "Vì những sai lầm nghiêm trọng, cần phải xét lại toàn bộ giải thưởng văn học 1954-1955; đề nghị đưa tập thơ Việt Bắc xuống giải nhì. Loại tập thơ Ngôi sao và một số quyển không xứng đáng”. Táo tợn hơn nữa, Trăm Hoa còn “đề nghị bỏ lệ khai báo trong chính sách quản lý hộ khẩu”. Tất nhiên chỉ ra được vài số Trăm Hoa “chết yểu”. Tuy không xơi đòn nặng như Nhân Văn Giai phẩm nhưng Nguyễn Bính cũng phải rời Hà Nội về Nam Định làm anh nhân viên ngoài biên chế dưới sự “quản lý chặt chẽ” của Trưởng ty văn hóa, nhà văn Chu Văn. Trong thơ chân dung về nhà thơ tình số 1 VN này, Xuân Sách điểm có hai tác phẩm tiêu biểu Lỡ Bước Sang Ngang (1940), Giếng Thơi (1957) nhưng vẫn không quên “sự kiện báo Trăm Hoa” với tình cảm xót xa:
  “Hai lần lỡ bước sang ngang
 Thương con bướm đậu trên dàn mồng tơi
 Trăm hoa thân rã cánh rời
 Thôi đành lấy đáy giếng thơi làm mồ".

Nhà thơ Tú Mỡ trước cách mạng đã từng “ngang ngạnh” trong “dòng nước ngược”:
 “Trong đình quan khách cỗ bàn.
 Vòng ngoài dân đói hàng ngàn xúm đông
 Há mồm lố mắt đứng trông
 Chúc thầm các cụ các ông muôn đời”.
Vậy nhưng từ ngày theo kháng chiến thì “Tú mỡ” đã thành “Tú tóp”:
“Một nắm xương khô cũng gọi mỡ
 Quanh năm múa bút để mua vui
 Tưởng cụ vẫn bơi dòng nước ngược
 Nào ngờ trở gió lại trôi xuôi”.

Nhà thơ Quang Dũng tác giả “Tây tiến”- một trong số ít bài thơ hay nhất thế kỷ, năm 1957 phải đi chỉnh huấn trong vụ Nhân Văn Giai phẩm, từ đó ông sống rất nghèo, lặng lẽ trong cương vị biên tập báo Văn Nghệ và sau là NXB Văn Học. Năm 1978, tôi cùng ăn cơm với ông tại nhà ăn tập thể  NXB Văn học, Quang Dũng cao to nên ăn rất khỏe lâu lâu lại thấy ông đứng lên đi xin thêm cơm. Bà Gái cấp dưỡng lúc đầu còn cho thêm cơm, sau chỉ cho… miếng cháy. Xuân Sách viết chân dung ông với lời lẽ xót thương và mến phục:

 Sông Mã xa rồi tây tiến ơi...
 Về làm xiếc khỉ với đời thôi
 Nhà đồi một nóc chênh vênh lắm
 Sống tạm cho qua một kiếp người.
 Áo sờn thay chiếu anh về đất
 Mây đầu ô trắng, Ba Vì xanh
 Gửi hồn theo mộng về tây tiến
 Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Nữ thi sĩ Anh Thơ (1921), được giải thưởng của Tự Lực Văn đoàn năm 1939 khi mới 18 tuổi, tác giả tập “Bức tranh quê” (1941) . Đi cách mạng năm 1945 trở thành cán bộ phụ nữ và làm thơ cách mạng, đại loại như:        
 Con đã về nơi bác ở ngày xưa
  
 Bác về, mời cụ “Các Mác’’ về, trên núi đá
 Trong cả lòng hang, Bác tạc tượng người.
 Như tạc niềm tin cho con cháu đời đời
 Từ thẳm rừng sâu ngời lên chủ nghĩa.

 Bởi thế, Xuân Sách có vẻ tiếc cho bà:

"Ấy bức tranh quê đẹp một thời
 Má hồng đến quá nửa pha phôi
 Bên sông vải chín mùa tu hú
 Khắc khoải kêu chi suốt một đời".

Nhà văn Vũ Trọng Phụng, tiểu thuyết gia vào loại hàng đầu ở Việt Nam nhưng số phận tác phẩm của ông thật bi thảm. Năm 1957, ông Trương Tửu và Trần Thiếu Bảo (nhà in Minh Đức) tổ chức giỗ Vũ Trọng Phụng và tái bản “Số đỏ”. Có kẻ ỏn thót với Ủy viên Bộ chính trị Hoàng Văn Hoan là Vũ Trọng Phụng viết bài nói xấu ông ký ga , không may bố ông  “lãnh đạo cao cấp” này lại cũng làm nghề đó. Thế là một chiến dịch  triệt hạ Vũ Trọng Phụng được phát động. Ông bị quy là đệ tử của Freud, rồi ai đó moi trong thư viện ra bài báo của ông “Nhân sự chia rẽ giữa đệ tứ và đệ tam quốc tế, ta thử ngó lại cuộc cách mệnh cộng sản ở Nga từ lúc khởi thủy cho đến ngày nay" in trên Đông Dương tạp chí số ra ngày 25/9/ 1937, ông bị quy là phần tử Trotskít. Từ đó Vũ Trọng Phụng coi như bị “khai trừ” khỏi văn đàn. Sau này khi tôi về NXB Văn Học, nhà phê bình văn học, Giám đốc Như Phong rỉ tai tôi: " Trong cuộc họp phê phán Vũ Trọng Phụng ở Thái Hà ấp toàn những nhà văn hàng đầu mà không một thằng nào dám mở mồm bênh Vũ Trọng Phụng lấy một câu…”. Mãi tới thời kỳ đổi mới, ông Lý Hải Châu, GĐ NXB Văn Học mới lần lượt tái bản tác phẩm của Vú Trọng Phụng. Khắc họa chân dung ông, Xuân Sách đầy lòng cảm phục:
“Đã đi qua một thời Giông tố,
Qua một thời cơm thầy cơm
Còn để lại những thằng Xuân tóc đỏ
Vẫn nghênh ngang cho đến tận bây giờ”.
Nhà văn Nam Cao, cha đẻ của Thị Nở, Chí Phèo, cán bộ cách mạng, từng phụ trách báo Cứu Quốc, hy sinh năm 1951 trên đường công tác thuế nông nghiệp ở khu III.Giả dụ ông còn sống như các nhà văn cùng thời khác, không hiểu có còn đứng vững trên lập trường cách mạng trong cơn “tai biến”  Nhân Văn Giai Phẩm như Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài… không? Xuân Sách viết về ông đầy ưu ái:
 Em còn đôi mắt ngây thơ
 Sống mòn mà vẫn đợi chờ tương lai
 Thương cho thị Nở ngày nay
 Kiếm không đủ rượu làm say Chí Phèo!”.

Nhà thơ, kịch tác gia Thế Lữ , tác giả của “Mấy vần thơ” (1935) trong có những bài nổi tiếng: Nhớ rừng, Tiếng trúc tuyệt vời, Tiếng sáo Thiên Thai, Vẻ đẹp thoáng qua, Bên sông đưa khách, Cây đàn muôn điệu và Giây phút chạnh lòng. Năm 1936, hoạt động kịch với Ban kịch Tinh Hoa, ban kịch Thế Lữ. Sau năm 1947, ông tham gia kháng chiến, năm 1957 được bầu làm Chủ tịch Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam, hầu như không viết gì.
Xuân Sách tiếc cho ông đã quá sớm “về vườn bách thú”:
Với tiếng sáo Thiên Thai dìu dặt
Mở ra dòng thơ mới cho đời
Bỏ rừng già về vườn bách thú
Con hổ buồn lặng lẽ trút tàn hơi.

Nhà văn Bùi Hiển, nổi tiếng với truyện ngắn "Nằm vạ" (1940), nhưng sau đó tham gia cách mạng quá sớm, không viết được gì nhiều, nổi bật là tập “Trong gió cát”. Năm 1958, ông viết truyện ngắn “Ngày công đầu tiên của cu Tí” để cổ vũ cho phong trào hợp tác xã. Truyện ngắn này được sử dụng trong giáo trình văn học phổ thông tại miền Bắc và cả nước Việt Nam trong nhiều năm. Những năm 1945-1960 ông là Chủ tịch Hội văn nghệ Nghệ An, sau đó suốt trong nhiều năm , ông công tác trong Hội nhà văn VN. Xuân Sách giễu cợt:
Sinh ra  trong gió cát
Đất Nghệ An khô cằn
Bao nhiêu năm nằm vạ
Trước cửa hội Nhà văn.

Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng tham gia cách mạng từ năm 1930, đại biểu quốc hội khóa, người sống mãi với… Hội nhà văn, sau cách mạng viết tiểu thuyết “Truyện anh Lục”, “Bốn năm sau”, “Sống mãi với Thủ đô”, vở kịch “Lũy Hoa”… Xuân Sách khắc họa chân dung ông:
Anh chẳng còn sống mãi
Với Thủ đô, Lũy hoa
Để Những người ở lại
Bốn năm sau khóc òa…”.

Trong các nhà văn “tiền chiến” đi theo cách mạng, người bị Xuân Sách "giễu cợt sâu cay" nhất có lẽ là nhà văn Kim Lân. Trước cách mạng, từ năm 1941, Kim Lân đã nổi tiếng về truyện ngắn “vợ nhặt”. Ông viết không nhiều, sau cách mạng ông viết “Làng” về nông thôn Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp, tuy nhiên, hai truyện “Ông lão hàng xóm” (1955) và “Con chó xấu xí” (1962) bị phê phán phi hiện thực xã hội chủ nghĩa.
 Nên danh nên giá ở làng
 Chết vì ông lão bên hàng xóm kia
 Làm thân con chó xá gì
 Phận đành xấu xí cũng vì miếng ăn.
    
(còn tiếp)
----------------------------
* nguồn: blog nhattuan 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét