Chủ Nhật, 17 tháng 6, 2012

chân dung hay chân tướng nhà văn [kỳ 39-40] - nhật tuấn

KỲ 39




Sau “Xung đột”, Nguyễn Khải viết tiếp tiểu thuyết khác, khá nổi tiếng cũng về thời kỳ hợp tác hóa nông nghiệp: “Chủ tịch huyện”.
Mặc dầu tựa là “ hủ tịch huyện” nhưng ở đầu ca ngợi hết lời “Chủ tịch xã”. Đó là “chủ tịch xã trẻ và tính toán giỏi nhất huyện… Con người tài giỏi đã bắt đầu nghĩ: vắng tôi mọi việc đều không ra gì…”.
Vậy Chủ tịch xã đó thực sự “tài giỏi “ ra sao? Trước hết ông ta xắn quần lội ruộng để kiểm tra và một lần bắt gặp “hai sào ở đồng Con Cú của đội hai, cày còn dối lắm, chỉ vài xá vòng quanh”, lập tức Chủ tịch xộc ngay đến nhà ông Chủ nhiệm hợp tác xã để vạch tội. Ông Chủ nhiệm lại cho gọi thợ cầy đến. Anh này đành phải thú nhận cày dối làm mọi người phục lăn Chủ tịch xã đi sâu đi sát.
Lần khác, Chủ tịch xã sau 3 tháng nằm viện về, nghe tin mức bán thóc thuế nghĩa vụ của hợp tác xã còn thấp, lập tức cùng kế toán lặn lội tới từng hợp tác xã tính toán lại thu nhập và quả nhiên họ đều phải nâng cao mức bán thóc nghĩa vụ cho Nhà nước.
Cũng trong thời gian ông Chủ tịch xã nằm viện, ở nhà ông Phó Chủ tịch đã “ngã giá mua năm gian nhà ngói của ông Cẩm với giá bốn nghìn đồng để rỡ ra làm trường học”. Chủ tịch xã đi viện trở về nhất định không chịu và quyết định chỉ mua với giá… hai nghìn đồng mà gia chủ cũng đành phải bán.
Một lần chủ nhiệm hợp tác xã An Lạc Hạ “lên xin ủy ban cho phép mổ con lợn năm chục cân lấy thịt cho xã viên ăn”. Mặc dầu ông Phó Chủ tịch đã đồng ý, nhưng ông Chủ tịch xã  đi công tác về khăng khăng không cho mổ vì “mổ rồi, nuốt vào bụng rồi mà không thu được đủ phiếu thì cũng đến cười xòa với nhau…”. Vậy có nghĩa là muốn mổ lợn, ông Chủ nhiệm phải duyệt “phương án ăn chia" cái đã.
Một lần khác, ông Trưởng phòng lương thực xuống xã đề nghị ký hợp đồng xay thóc kho. Một lần nữa ông Chủ tịch xã trẻ tuổi lại tỏ ra xuất sắc vì biết tính toán tới cả “chín xu một cân điện, vị chi là chín hào. Lại còn tiền dầu luyn. Ba ngày phải thay một lần dây cu-roa bốn mét, mỗi mét mười hai đồng. Lời lãi đâu mà nhiều…”. Mặc dầu “tài năng tính toán" của ông Chủ tịch xã chỉ có “nhiêu đó”, nhưng ông Chủ tịch huyện đã như mở cờ trong bụng: "Đấy! Cán bộ xã của huyện này như thế đấy! Thật là hiện đại nhé! Mặc dù máy xay chưa về đến xã, mà hắn ta đã biết lui tới như một ông Giám đốc thực thụ vậy…”.
Ngày nay coi lại chân dung ông  Chủ tịch xã được coi là xuất sắc, tài giỏi người đọc phải phì cười. Hóa ra tài năng ông đứng đầu chính quyền xã chỉ là đi xét nét thợ cày, tính toán sao bóc lột dân nhiều hơn, duyệt cho hợp tác xã mổ trâu, tính toán giá công xay thóc… Nếu chỉ bằng vào những khả năng đó thì trình độ ông Chủ tịch xã “xuất sắc và tài giỏi” chỉ ngang với  anh nông dân hạng bét. Người ta không thấy mảy may ý thức đứng đầu chính quyền một xã để có ý tưởng mới trong sản xuất, trong việc thực thi pháp luật mà chỉ loanh quanh việc vụn vặt, con cá lá rau bất kỳ anh nhà quê ngớ ngẩn nào cũng làm tốt.
Chân dung “chủ tịch xã” đã méo mó vậy, còn Chủ tịch huyện ra sao? Đó mới là phần chính trong tiểu thuyết “Chủ tịch huyện” của Nguyễn Khải.
Cái “ông Chủ tịch huyện” này chắc phải là một anh “nhà quê” đặc sệt bởi lẽ:
"Buổi sáng vừa ngủ dậy, ông Chủ tịch huyện hãy còn cầm trong tay chiếc bàn chải đánh răng đã có thể gọi phóng lên dãy nhà trên: "Các cậu ở nông lâm ơi, sáng nay An Trạch nó gieo đay thí nghiệm đấy đã cử người xuống chưa?".
Quan đầu huyện làm việc theo kiểu “xó bếp” vậy, đủ hiểu cái công việc ở Ủy ban "tẹp nhẹp" và “tạp pí lù” chừng nào. Thời đó chưa có dự án, chưa có vốn ODA, WB, chưa có nước ngoài đầu tư… nên các cấp chính quyền trong huyện, ngay cả ông Chủ tịch cũng chẳng có gì “ăn phần trăm”, “rút ruột công trình”, cướp đất của dân chia chác … Bởi thế trụ sở Ủy ban huyện chưa nguy nga, bề thế như hiện nay mà chỉ là cái nhà dài, tập thể, ở đó “người ta sống như trong một gia đình”. Đó là “một dãy nhà ngang thấp tối ở khuất hẳn phía trong, vẫn lợp rạ, trát vách... Gian đầu là chỗ ở của Chủ tịch huyện, gian thứ hai là chỗ ở của Chánh văn phòng Ủy ban và anh thư ký đánh máy, gian thứ ba là của bà nấu cơm và chị phụ trách lớp mẫu giáo, vỡ lòng trong toàn huyện, còn hai gian ngoài cũng giành riêng cho gia đình bà Phó Chủ tịch huyện…”.
Thật không thể tưởng tượng nổi một ông quan đầu huyện lại ăn ở kiểu “lán trại” như công nhân trên công trường:
Ông Chủ tịch nằm duỗi thẳng trên giường, cảm thấy rất rõ rệt các đầu xương đang rời ra vừa khoan khoái, vừa mỏi mệt. Nhạn, chánh văn phòng ủy ban đã ngáy đều đều bên kia vách tường. Khi Nhạn thôi ngáy một lúc nào đó lại đến tiếng nghiến răng của bà nấu cơm ở buồng bên kia nữa…”.
Ủy ban huyện “ăn ở” lùi sùi và bệ rạc vậy trách gì công việc hàng ngày của ông Chủ tịch huyện chỉ toàn chuyện “bếp núc”. Trước hết ông làm việc không có giờ giấc gì hết:
“Ở  huyện người ta không thể làm việc đúng giờ giấc được, và cũng khó có thể chủ động dành một khoảng thời gian hoàn toàn cho riêng mình, kể cả khi anh ốm nhưng không đi nằm bệnh viện, anh về nhà vui chơi với vợ con hoặc ngay sau khi anh đang ngủ say sưa sau một ngày làm việc mệt".
Vậy nhưng công việc Chủ tịch huyện gồm những gì mà phải làm việc suốt 24/ 24 vậy? Hóa ra chẳng có gì ghê gớm, toàn những việc hành chính, lặt vặt. Trước hết một ngày ông phải “ký hàng trăm tờ công văn (tuy chính người ký cũng không thể biết hết nội dung của nó) vì huyện có những hăm nhăm xã và hăm hai phòng, ngành, mặc dầu các phòng ngành đều ăn chung một bếp, ra vào đều chạm mặt nhau nhưng vẫn cứ phải đọc công văn của nhau”.
Công văn gì mà lắm thế, thì đại loại toàn những chuyện “gieo đay của các xã", “tình hình đào đắp của các đội thủy lợi và số mét phải hoàn thành”,"tình hình dồn ấp trại về làng để khoanh vùng cơ giới...”.
Ta hãy coi công việc hàng ngày của Chủ tịch huyện. Trước hết một ông chủ nhiệm hợp tác xã  trồng đay đến kiện anh phụ trách chi điếm ngân hàng huyện không cho vay tiền. Anh này bị ông chủ nhiệm tố cáo nhận ba sào đất của ông chủ nhiệm khác nên cho vay dễ dàng còn ông không có gì lót tay nên bị gây khó dễ. Thế là ông Chủ tịch huyện chẳng biết nếp tẻ ra sao, chẳng “điều tra điều nghiên” gì ra ngay cái lệnh cách chức anh ngân hàng dễ dàng như ông bố trong nhà phạt con cái. Rồi đến cuối buổi có một ông lão chạy vào Ủy ban đề nghị ông Chủ tịch huyện can thiệp để xe ô tô khách chở cho “mấy chục cân rau của hợp tác xã đưa lên cho anh em trên công trường, trên ấy hiếm rau lắm…”. Tất nhiên là ông Chủ tịch huyện tức khắc chạy ra bến xe ra lệnh cho nhà xe phải chở cả ông lão với bao tải rau của ông.
Đại khái công việc hàng ngày của ông Chủ tịch huyện toàn những việc chẳng ra ngô ra khoai như vậy, chẳng cần tới hiểu biết về khoa học quản lý cũng như những kiến thức tối thiểu về khoa học kỹ thuật. Cứ theo nội dung công việc của ông thì bất kỳ anh nhà quê thất học nào cũng làm được “chủ tịch huyện”, miễn là nắm vững đường lối chính sách của Nhà nước và tuyệt đối trung thành với Đảng.
Trong “công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa” ở miền Bắc ngày xưa, đúng với bản chất nông dân của cuộc cách mạng, ý thức lao động gân bắp được coi là “phẩm chất số một” của việc đánh giá và đề bạt cán bộ. Bởi vậy người ta không lấy làm lạ vì sao trong tiểu  thuyết “Chủ tịch huyện” của Nguyễn Khải, các ông Chủ tịch xã, Chủ tịch huyện và Bí thư tỉnh ủy ông nào ông nấy đều mở đầu việc lãnh đạo nông dân bằng…"xắn quần móng lợn đi thăm đồng ruộng”.
“Ông Quang, Bí thư tỉnh ủy, vừa đánh xe con xuống huyện đã lôi ngay ông Chủ tịch huyện Hiệp lên xe, kéo nhau ra đồng coi tình hình sâu phá ngô ra sao? Và ông Bí thư chỉ thị cho ông Chủ tịch huyện cái việc mà lẽ ra cấp xã cũng có thể quyết định được:
Nơi nào nhiều sâu quá nên bán chịu thuốc trừ sâu cho họ hoặc ứng một khoản tiền nào đó cho họ vay mua thuốc. Chú ý đấy, không thì hỏng ăn cả…”.
Liền đó ông Bí thư lại khuyến cáo ông Chủ tịch huyện nên đi thăm các cán bộ xã đội ở 25 xã trong huyện là vì “Khi họ mổ lợn, ăn cơm liên hoan mình không đến cũng được, nhưng khi họ túng thiếu, ốm đau, gặp khó khăn thì phải tìm mọi cách chia sẻ với người ta. Dân mình có câu: "lời chào cao hơn mâm cỗ” là có ý nghĩa sâu sắc lắm. đấy…”.
Trong một xã hội toàn bộ nông dân đều bị nhốt trong hợp tác xã với kỹ thuật canh tác lạc hậu “con trâu đi trước, cái cày theo sau” từ ngàn năm trước thì đời sống con người hết sức đơn giản – không du lịch, không tài sản, không luật sư, không phương tiện di chuyển, không máy móc phục vụ sinh hoạt và giải trí, không cả hàng hóa và chợ búa,  con người chỉ nhăm nhăm lo sao cho “ăn đủ no, mặc đủ ấm” vậy thôi; việc quản lý xã hội bởi thế mà trở nên hết sức đơn giản và dễ dàng. Nhà nước công nông thực ra chỉ lo “quản lý" sao cho nông dân và công nhân đổ hết lao động gân bắp ra để thu thóc và sản phẩm công nghiệp. Chính vì vậy ông “quan đầu tỉnh” chẳng cần có đầu óc nảy sinh ý tưởng mới, chẳng cần có kiến thức khoa học quản lý và khoa học kỹ thuật, ông chỉ “đòi hỏi được biết cái tình hình thực, cái tình hình tự nhiên nhất, không bị tô vẽ, không bị che lấp bởi bất cứ một thứ sắp xếp giả tạo nào". Cái tình hình thực đó thực ra rất đơn giản xoay quanh có mỗi chuyện “nước, phân, cần, giống” mà bất kỳ một anh cán bộ cấp xã nào cũng có thể điều hành được chẳng cần tới một ông “quan đầu tỉnh”. Bởi vậy khi xuống huyện, ông bí thư tỉnh ủy “sẵn sàng kiếm ngay một cái buồng riêng chui vào đó làm việc một mình như ở nhà, hoặc đọc báo hoặc ngủ một giấc nếu như đêm trước anh không được ngủ….”.
Để tô vẻ cho ông “bí thư tỉnh ủy” đi sâu đi sát quần chúng, ông nhà văn “bắt” ông xộc cả vào phòng ngủ vợ chồng người ta, làm cái việc rất kỳ cục là dạy chủ nhà… sắp xếp quần áo:
“Này, đừng có thu dọn theo cái cách ấy. Anh hãy để thứ nào vào thứ ấy, đúng với cái chỗ của nó, xem nào!”.
Miệng nói, tay Quang (bí thư tỉnh ủy) đã giũ tung cái đống quần áo lẫn lộn cái bẩn, cái sạch, cái khô, cái ướt, rồi lượm lại từng cái một: "cái này của chị ấy thì để riêng ra, của chúng nó cũng xếp riêng ra. Cái quần này của cậu phải không? Đã giặt chưa đấy? Thôi, chốc nữa đem giặt đi, đói cho sạch rách cho thơm…”.
Ông nhà văn cứ tưởng ca ngợi tính đi sâu đi sát quần chúng của ông Bí thư tỉnh ủy. Ngờ đâu ngày nay đọc lại chỉ thấy tức cười vì… lố bịch.

KỲ 40





Chưa hết, ông bí thư tỉnh ủy còn "thọc sâu” vào gia đình người ta:
Đồng chí Bí thư tỉnh ủy liền tính toán với ông chủ gia đình về công việc của từng đứa, buổi sáng chúng làm gì? Trưa chiều nên giao cho chúng những việc gì? Rồi Quang bày cách thu dọn lại nơi ăn chốn ở, từ chỗ xếp quần áo, đến sách vở, guốc dép, đồ dùng thức đựng trong gia đình…”.
Chẳng rõ bà chủ nhà – tức vợ ông “bí thư xã” phản ứng sao khi chứng kiến thằng cha căng chú kiết nhảy vào nơi riêng tư trong tổ ấm của chị, “xía vô” tới cả những việc lẽ ra chỉ có vợ chồng chị biết. Ngược đời, thời đó người ta lại lấy làm “vinh dự” và cảm động vì được "đồng chí bí thư tỉnh ủy” quan tâm, săn sóc. Văn hóa ứng xử xã hội chủ nghĩa nặng mùi “nô lệ”, “tôi tớ” vậy đó. Người ta tự tước bỏ quyền riêng tư trong gia đình khi được nhận ơn mưa móc của cấp trên. Quả nhiên sau khi "dạy dỗ bảo ban” gia chủ chi li cặn kẽ, ông “bí thư tỉnh ủy” liền lệnh cho ông Chủ tịch huyện trích quỹ cho ông này vay “hai trăm mua một con nghé, chăn dắt một năm bán đi cũng được ba bốn trăm, có thêm một khoản tiền…”.
Đảng “lãnh đạo" ở cấp tỉnh là như thế đấy, nổi hứng lên một ông bí thư tỉnh ủy có quyền tùy tiện móc công quỹ ra ban phát cho kẻ này kẻ khác bất chấp luật lệ tài chính của Nhà nước. Xuống xã lần này, ông Bí thư tỉnh ủy cũng được chứng kiến một ông Chủ tịch xã tham ô. Ông này lợi dụng chức vụ “viết giấy giới thiệu lên huyện xin mua những... hai chục tạ phân đạm rồi bán ra ngoài theo giá tự do” rồi thì “một năm trời làm ngơ cho thằng Kim ở Đại Lâm mổ lậu mười lăm con lợn, mổ mỗi con lại mời ông chủ tịch một bữa chén, nếu không ăn thì hắn cho con đưa sang một nửa cỗ lòng”. Rồi thì “chỉ riêng số gạo cứu đói cho Du Lâm tháng ba năm ngoái, ông Chủ tịch cũng để riêng cho gia đình mình hơn hai tạ…”.
Mua bán chênh lệch hai tấn phân đạm, ăn của đút “nửa cỗ lòng heo”, “một bữa chén”, ăn chặn hai tạ gạo… chỉ có thế thôi mà ông Chủ tịch xã vẫn phải đi tù. Đó là tình hình tham nhũng vào những năm đầu thập kỷ 1970. Hơn 40 năm sau, tốc độ ăn cắp của cán bộ Đảng ta đã gia tăng đến khủng khiếp nếu ta tính được số tiền và của cải bọn đầu sỏ VINASHIN, VINALINES và vô số các Tổng công ty khác moi móc của Nhà nước. Từ “nửa cỗ lòng heo” ngày xưa đến biệt thự, trang trại ngày nay - cán bộ Đảng ta quả thực đã nhảy vọt một bước vĩ đại, có tính cách lịch sử nâng nghề ăn cắp thành nghệ thuật, đưa tham nhũng trở thành một phần máu thịt trong cơ thể “Đảng ta”.
 Ông bí thư xã nhận xét ông Chủ tịch xã tham ô “là một cán bộ đã được rèn luyện, một con người tốt, có năng lực làm việc, sở dĩ mắc tội tham ô là vì “những sai lầm của anh ấy chúng tôi biết cả, biết ngay từ đầu... Chỉ vì trong Đảng ủy nể nả nhau quá, nhân nhượng nhau nhiều lần quá thành thử lỗi nhỏ thành lỗi lớn…”.
Ông Bí thư tỉnh ủy giở giọng cao đạo:
 “Hoặc là chúng ta phải nghĩ tới nhân dân, tới phong trào; hoặc là chúng ta chỉ lo lắng cho riêng mình…”. 
Ngày nay các đồng chí “bí thư tỉnh ủy” chẳng còn nói năng theo kiểu “chống chủ nghĩa cá nhân” thời “bác Hồ” được nữa, một vì "ngượng mồm", hai sợ cấp dưới nó cười cho thối ruột.
Khác với “Xung đột” còn có “mâu thuẫn địch – ta”, còn có chuyện đấu đá giữa "nhà nước” và “nhà thờ” câu chuyện còn có chút hấp dẫn, ly kỳ, trong “Chủ tịch huyện”, chỉ có quan hệ giữa cán bộ và xã viên, tức “mâu thuẫn nội bộ”, ít “gay cấn”, đấu đá “một mất một còn” nên chuyện nhàm chán, tẻ nhạt. Để hấp dẫn độc giả, ông nhà văn  tạo ra những “xung đột” tưởng ác liệt mà thực chất là hòa hợp vui vẻ.
Nguyên ở hợp tác xã Nam Hòa, “sau khi rỡ khoai mùa xong, có hai chục hộ gửi đơn thẳng lên trung ương khiếu nại về đời sống khó khăn, thu hoạch quá thấp, xin được ra ngoài làm ăn, nhưng vẫn “trung thành với Đảng, với chủ nghĩa xã hội”.
Thời nay, bà con nông dân làm đơn khiếu kiện là chuyện thường ngày, nhưng thời đó – làm đơn lên thẳng trung ương xin ra hợp tác xã là chuyện tày trời, kinh khủng, chắc do phản động xúi giục.
Bởi vậy ngay lập tức, chủ nhiệm hợp tác xã triệu tập họp Ban quản trị và các hộ đã nộp đơn xin ra khỏi hợp tác. Người đọc chờ đợi ông nhà văn qua sự kiện này vạch mặt bọn cường hào mới ở nông thôn, ăn cắp tài sản hợp tác xã, chèn ép và bóc lột sức lao động, đẩy người dân vào nghèo đói cùng cực khiến họ phải vùng dậy phản kháng, qua đó chứng minh đường lối xây dựng hợp tác xã của Đảng là sai lầm nghiêm trọng.
Lẽ ra nhà văn trung thực phải làm được chuyện đó. Tiếc thay, ông Nguyễn Khải làm ngược lại. Ông bôi xấu những người khiếu kiện, ông mô tả một trong những người đầu đơn xin ra hợp tác đó lại là một tên “ăn mặc kỳ quái. Hắn ta khoác lên người không phải cái áo mà là những mảnh giẻ, một cái quần không ra chùng, không ra cộc vá víu hàng chục mụn, và cái thằng vô giáo dục đã không biết giữ liêm sỉ, khi cái phần đáng lẽ ra phải giấu kín thì nó lại phơi bầy ra trước mắt mọi người…”.
Ông nhà văn đã dựng chân dung người phản kháng, xin ra khỏi hợp tác là một thằng lưu manh, chày cối như vậy đấy. Tệ hại hơn nữa, hắn nghèo đói nhưng không phải do hợp tác xã gây ra mà chính là do… cờ bạc. Ta hãy nghe bà chủ nhiệm kể tội hắn:
"Chúng tôi còn có khuyết điểm là đã để anh thua bạc phải gán nợ hàng tạ thóc đến nỗi vợ con anh phải đói. Lại không biết khuyên anh thôi rượu, thôi chè chén, thành thử trong lưng anh bây giờ không còn lấy được vài đồng đong gạo cứu đói…”.
Nguyễn Khải coi những kẻ làm mất trật tự trong hàng ngũ đó chẳng qua là đám “giòi bọ”. Ông thừa nhận tuy có những người xin ra khỏi hợp tác xã nhưng đó là bọn cờ bạc, lưu manh ở nông thôn chứ không phải nông dân làm ăn lương thiện.
Để chứng tỏ thêm chủ trương hợp tác hóa nông nghiệp của Đảng là đúng đắn, sáng suốt, Nguyễn Khải “bịa” thêm một nhân vật xin ra hợp tác xã: lão Hóa – một nông dân cách mạng nòi, đã từng đào hầm cứu sống Chủ tịch huyện hồi chống Pháp. Ô hay, một hạt nhân tích cực của Đảng vậy sao xin ra hợp tác? Người ta cứ tưởng nhà văn Nguyễn Khải phát hiện ra một “lỗ hổng” trong chính sách hợp tác hóa buộc xã viên phải nộp đơn xin ra sẽ dẫn tới nguy cơ tan vỡ hợp tác xã. Nhưng không phải vậy, ông nhà văn đã “làm động tác giả” để kích thích trí tò mò độc giả, tăng phần hấp dẫn cho cuốn sách đó thôi.
Hóa ra ông già Hóa và một số xã viên làm đơn xin ra khỏi hợp tác xã không phải vì “bất mãn chế độ” mà ngược lại, chính là để đòi cán bộ hợp tác xã thực hiện đúng... chủ trương chính sách Nhà nước.
Nguyên vùng này có nhiều đất vườn có thể gieo trồng, chăn nuôi nhiều thứ, giá trị hơn cả ruộng khiến “người ta có thể trao cho hợp tác xã tất cả đất ruộng của mình, nhưng cốt tử phải giữ lấy mấy sào vườn…”. Bởi vậy xã viên chỉ chăm chút vào mảnh vườn riêng lơ là ruộng chung. Rồi thì phân bón của hợp tác xã cũng chạy vào mảnh vườn riêng.
Đứng trước “mầm mống tư hữu” trổi dậy, ông lão Hóa và một số xã viên “tiên tiến” đã đấu tranh với cán bộ đòi uốn nắn tư tưởng xã viên, yêu cầu họ phải coi trọng ruộng đất chung trong hợp tác quan trọng hơn mảnh vườn riêng. Tuy nhiên do cán bộ cũng có “mảnh vườn riêng” nên yêu cầu đó không được thực hiện, bởi vậy họ bày mưu làm đơn ra khỏi hợp tác xã để gây áp lực buộc cán bộ thực hiện đúng chủ trương của Đảng và chính phủ mà thôi.
Trong “Chủ tịch huyện”, Nguyễn Khải đã bịa ra một loại nhân vật giả, xã viên hợp tác xã “cách mạng hơn cả Đảng”, “mác-xít hơn cả người cộng sản”.
                              
(còn tiếp)
--------------------------
* nguồn: blog nhattuan


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét