KỲ 31
Ngay cả trong
gia đình Nhàn, Phó Chủ tịch xã, chỉ có hai mẹ con mà xem ra trò chuyện
hàng ngày giống như “hai phe” đối lập nhau. Hồi cải cách, cha Vinh bị mang ra
đấu. Bà mẹ bênh cha: “Đấu cha là đấu Chúa đấy… Mày phải biết
đỗ được đến chức cụ là trải qua trăm nghìn khó khăn thử thách đấy. Nếu người
không có nhân đức thì ngay khi chịu phép cắt tóc không hộc máu cũng phát ung
nhọt, bệnh tật rồi..”.
Cô con gái cãi
lại:
“Mẹ còn nhớ
nhân dân bên Thạch Bi xứ cũ của ông ấy, cơm nắm cơm gói đến chầu chực ở đây
hàng tuần chỉ xin được lột da ông ấy căng mặt trống không? Chính phủ không xử
bắn là may chứ còn tiếng tốt gì?”.
Bà mẹ lại kể lể:
“Nếu mày không nghe lời tao, tao
không dậy được mày thì cả nhà này sẽ mắc vạ tuyệt thông, bị khai trừ ra
khỏi hội thánh. Nếu thế thì mẹ chết mất… Con ơi, mẹ run sợ lắm. Mẹ già rồi,
ngày linh hồn lìa khỏi phần xác cũng chẳng bao xa… lúc đó hai con khiêng được mẹ
ra đồng hay sao, hay là buộc rợ vào chân mẹ cho trâu kéo hở con… con nghĩ lại
cho mẹ nhờ…”.
Ngày này qua
ngày khác, bất kể ngày hay đêm, cứ hai mẹ con ngồi với nhau là y như rằng nổ ra
“xung đột” như thế. Ông nhà văn liệu có nói quá đi không?
Trong gia đình,
họ hàng nhà Thụy – đội trưởng du kích, “xung đột” và chia thành hai
phe "cách mạng” và “phản cách mạng” còn dữ dội hơn. Chú ruột của Thụy là cha
Thuyết, bố đẻ của Thụy là ông trùm Nhạc. Ngày nọ cha cho gọi các cháu trong nhà
gồm có Thụy, Toán và Quyên tới để cha cho tiền làm nhà. Trước khi đưa tiền, cha
lại nói chuyện “chính trị”:
“Nói đến cải
cách tao lại nhớ hồi ấy du kích chúng nó làm bùi nhùi cụ Ngô rồi đâm chém hò
hét. Thật trò hề. Cụ Ngô là người rất sùng đạo. Cụ là em đức Cha Ngô Đình Thục
đấy. Nghe nói sáng nào cụ cũng đánh ô tô đến nhà thờ xem lễ rồi mới về làm
việc. Trong Nam
người ta yêu quý cụ lắm…”.
Nghe ông chú
tuyên truyền “phản động”, dẫu ông là cha đạo đi chăng nữa, Thụy cũng chặn họng
ngay:
“Thưa Cha… Cha
cho gọi chúng con lên để nói chuyện trong nhà hay chuyện chính trị?”.
Cứ như thế, chú
cháu bốp chát nhau, sau cùng cha Thuyết chỉ cho tiền Toán và Quyên, còn Thụy nhất định không nhận. Bởi thế ông Nhạc, bố của Thụy chì chiết
con:
“Khí khái rởm. Tiền đưa tận tay mà
không thèm cầm. Bốn năm chục vạn chứ có ít đâu, mày thử xem đến bao giờ mới
dành dụm được chục vạn mà dựng nhà? Mày cứ bảo Cha không tốt, không tốt thì
cũng là Cha linh hồn, cũng là em tao, chú mày. Mày đừng đâm bị thóc chọc bị gạo
để anh em tao lủng củng với nhau. Không tin người ruột thịt thì tin ai? Mày
không thèm lấy tiền của Cha thì tao sẽ xin Cha, ăn mày Cha chẳng ai cười…”.
Thế là quan hệ
cha con của Thụy – đội trưởng du kích cũng căng thẳng chẳng thua gì
quan hệ mẹ con của cô Nhàn – Phó Chủ tịch xã.
Liệu trong
những người ruột thịt với nhau chỉ toàn là “xung đột” chính trị không?
Trong một số
không nhiều các nhà văn miền Bắc viết về Thiên Chúa giáo như Nguyễn Thế Phương
với tiểu thuyết Nắng, Chu Văn với tiểu thuyết Bão biển… có thể nói Nguyễn Khải
là nhà văn bám sát nhất quan điểm Mác Lênin “tôn giáo là thuốc phiện
ru ngủ quần chúng”. Chẳng
hiểu ông có xác tín điều đó không hay chỉ vờ làm vui lòng đồng chí Tố Hữu; song trên các trang viết của ông nhan nhản những tình tiết, những nhân vật
được ông mô tả chỉ nhằm bỡn cợt Chúa.
Đám rước kiệu “tượng
Đức Giê-su vác câu rút"
trong ngày lễ Phục sinh được mô tả với giọng dè bỉu:
"Thỉnh thoảng xé lên lanh lảnh một
vài tiếng kèn đồng te té te té… chói tai, lạc lõng, chìm nghỉm ngay trong cái
hỗn độn của tiếng trống, tiếng trắc gỗ, tiếng đọc kinh ngắm đàng thánh
giá, tiếng gọi nhau í ơi…”.
Đám người tổ
chức rước toàn là quân phản động. Đánh nhịp cho đội trống là Quảng và
Liêu. Quảng là “con
trai phó trương xứ, mười bảy tuổi đã sung vào đội quân của Cha Báu, mười tám
tuổi chuyển qua đội quân com-măng-đô, ít lâu sau được cử làm người hộ
thân cho viên quan năm chỉ huy quân sự miền hạ Nghĩa Hưng”, mới đây lại gỉả chết để vu vạ cho
bộ đội giết dân. Còn Liêu bị “tình
nghi ở trong đảng phái phản động, truy bức vợ chồng hắn về võ khí trong nhà xứ.
Từ ngày ấy hắn quan niệm về phần đời, phần đạo hoàn toàn khác. Thày Thịnh mời
hắn ra đứng trong ban thành lập hội trống nhà xứ”. Khi hội trống đã được thành lập
với ba mươi cái trống và bốn mươi bạn hữu, Liêu lộ mặt phản động “Lý tưởng
của người ta không phải là xã hội chủ nghĩa mà chính là hạnh phúc vĩnh
cửu trên thiên đàng…":
Sau đội
trống thì đến nghĩa binh nam và nữ. Nhà văn mượn một con bé con để diễn
tả sự thờ ở của con chiên với “nỗi đau của Chúa”.
Nó “còn bé lắm chừng như mới chịu lễ
lần đầu, hai đầu mào trắng chấm xuống gần khoeo chân…”. Nó mếu máo đọc
kinh:” Kính mừng Ma-ri-a đầy ơn phúc… bà có phúc lạ hơn người nữ… và Giê-su con
bà…”, nhưng mắt nó lại nhìn “một con chuồn chuồn mình đỏ đậu rún rẩy trên bụi
rơi gai ở vệ sông. Ôi con chuồn chuồn đẹp quá, đậu ngờ nghệch quá…”.
Trong khi đầu óc
con bé chẳng nghĩ gì tới Chúa thì ngay bà quản giáo trong đám rước
cũng vậy. “bà không đọc kinh, bà còn mải trông hơn sáu mươi em nữ nghĩa
binh, học trò của bà, nếu rời mắt là chúng nó lại xô đẩy nhau, cấu véo
nhau…” và bà quản giáo
được mô tả đầy ác cảm “trên
khuôn mặt bà không có lấy một nét nào hiền dịu, tha thứ, cởi mở của người mẹ;
nó ảm đạm như người có nỗi buồn sâu kín; nó khắc khổ vì bà là người tu hành;
khi bà đánh trẻ con thì rõ là người khó tính khắc nghiệt…”.
Sau đó các con
chiên lần lượt vào nhà thờ nghe đọc đoạn đóng đanh tưởng nhớ đến những sự
thương khó Chúa Guê-su đã chịu trên cây thánh giá. Chẳng hiểu sao cha xứ lại… khó kiếm ra được một người đọc đoạn kinh đó.
“Ông Đông phó
trương xứ chữ quốc ngữ không biết, chữ nho cũng không nốt nên sự hiểu
biết đạo lý kinh sách chẳng hơn gì người bổn đạo. Còn ông trùm Hòa, trùm đạo
thôn Hỗ lại càng… dốt hơn” .
Có thực
trong các ông trùm đạo nhiều người mù chữ đến như thế chăng?
Và nỗi đau của một bà già thương xót chúa Giê-su được mô tả “hài hước”:
Và nỗi đau của một bà già thương xót chúa Giê-su được mô tả “hài hước”:
“Bà Nhàn ngồi vào một góc, cái mào
đen rủ xuống hai bên má che gần hết khuôn mặt ảm đạm của bà. Bà cố bày ra trong
trí khôn như xem thấy chúa Giê-su bị quân dữ đóng đanh trên cây thánh giá
thật. Những cái đanh sắt mà đóng xiên qua bàn tay Chúa mình như thế thì đau đớn
biết chừng nào, chỉ vì tội mình và tội tổ tông truyền. Ôi, cái mạo gai, có
những bảy mươi hai cái gai lọt vào óc Chúa tôi, buốt nhức biết bao nhiêu, máu
chảy đầy mặt ròng ròng. Bà cứ tự vật vã với mình, trách móc mình sao đã vội vã quên đi sự thương khó mà Chúa đã phải chịu…”.
Thật đúng “tôn
giáo là thuốc phiện". Nó làm một bà già trở thành mê mụ, mù quáng đến dở hơi:
“Chúa lấy hai
cây gỗ cứng thay giường nằm, lấy mạo gai nhọn thay gối còn bà thì giường cao,
chiếu sạch, chăn đắp, màn che, bà còn phàn nàn gì nữa, kêu xin gì nữa. Bà
không bao giờ ao ước được sướng hơn mà chỉ muốn mình sẽ khổ đi, chịu đựng thêm
vì con đường lên thiên đàng là con đường hẹp…”.
Lực lượng “nhà
thờ” đông đảo vậy nhưng chẳng là gì với chính quyền cách mạng tiêu biểu nhất là
Môn – Chủ tịch xã.
"Một trong những địch thủ nguy
hiểm nhất của nhà xứ là Môn, xã đội trưởng ngày trước và nay là chủ tịch
xã…”.
Trong cải cách,
do “âm mưu của nhà thờ”, Môn đang là xã đội trưởng bị kích lên “thành phần
phản động” suýt nữa bị bắn như Rỹ. Lúc sửa sai, Môn được phục chức và trở thành một đảng viên trung kiên, lập trường còn vững hơn cả cấp trên.
Môn thường xuyên theo dõi các hoạt động trong nhà thơ và bắt ne bắt nẹt.
“Một hôm trên tòa giảng, cha Vinh
cao hứng nên có giảng chệch ra ngoài kinh sách E-van đôi chút: "Vinh đây dẫu
đầu rơi máu chảy cũng không chịu lui đâu. Nó có vả ta má bên hữu ta còn giơ má
bên tả cho nó vả nữa kia. Ai chịu bắt bớ vì sự công chính thì có phúc thật vì
nước trên lời là của kẻ ấy…”.
Lập tức có kẻ
mật báo, ngay sau buổi giảng, “Môn nhân danh chính quyền mời cha Vinh đến
trụ sở nói chuyện”. Khi cha
tới, “cha đưa tay ra nhưng không ai bắt nên lại rụt tay về”, Môn trấn áp ngay:
“Linh mục làm phản động, chính phủ
bắt giữ để tự hối cải lại còn nói không lùi bước. Ý chừng linh mục muốn chống
đối với chúng tôi mãi chăng? Muốn làm phản động lần nữa hay sao? Nếu vậy
chúng tôi sẽ có cách…”.
Tất nhiên cha sợ
vãi mồ hôi, lần sau cạch đến già có giảng kinh thì cũng phải “uốn lưỡi bảy lần". Khi “duyệt” cho nhà xứ thành lập đội kèn, ông Chủ tịch Môn còn đặt
điều kiện:
“Người trong hội kèn chỉ biết có
thổi kèn thôi, ngoài ra không được làm những việc gì khác, nói rõ ra là
không được làm chính trị. Nếu có thế nào thì ban chánh trương phải chịu trách
nhiệm. Còn nếu bằng lòng đặt dưới sự lãnh đạo của Ủy ban thì cụ thể phải nằm
trong khối văn xã…”.
Ban chánh
trương cùng các trùm họ mở tiệc mổ trâu để bầu Quý là địa chủ vào Ban
chánh trương xứ. Tất nhiên Môn được mật báo và tuy không được mời cũng lừng
lững đi vào bữa tiệc như chỗ không người rồi lên giọng chủ tịch xã:
"Muốn đạo gì thì đạo, đã là công
dân thì phải theo đúng pháp luật của Nhà nước. Nếu ai làm trái thì
dù bố mẹ đẻ ra cũng không bênh được…”.
Rồi ông Chủ tịch
xã can thiệp vào việc bầu bán của nhà thờ:
"Tôi lấy một ví dụ: đã là địa chủ
thì nhất thiết phải tước hết quyền công dân, không được tham gia bất cứ một tổ
chức nào cả. Thấy ban chánh trương cũ bất lực cần bầu lại thì cứ bầu, giáo dân
chúng tôi hoan nghênh mà ủy ban cũng hoan nghênh, nhưng bầu địa chủ là sai, địa
chủ lãnh đạo nông dân là chuyện ngược đời, là trái chính sách, trái cả lẽ đạo…”.
Và chỉ vài ngày
sau khi chánh trương xứ Quý đi Hà Nội về, “Môn
cho hai du kích đến áp giải Quý lại trụ sở bắt ngồi xuống đất. Môn hỏi:
“Quý! Mày hãy
nhắc lại tám điều quy định cho địa chủ sau cải cách ruộng đất để ủy ban nghe!”.
Lâu lắm ông
chánh trương xứ mới lại bị nghe một người khác nói đến tên mình một cách
láo xược vậy. Nhưng người đó lại là… đại diện chính quyền. Bởi vậy “Môn
bảo sao hắn cũng vâng dạ ngoan ngoãn lắm như người bị mê muội từ lâu nay mới có
dịp thức tỉnh. Môn kết luận:
“Mày đi Hà Nội không xin phép ai, đáng lý phải trị thẳng tay làm gương cho đứa khác nhưng Ủy ban tha thứ lần đầu. Còn mày làm những gì thì trong này đã có hồ sơ cả. Đời mày do mày định đoạt lấy. Muốn ăn cơm nóng, ở nhà với mẹ với vợ cũng được mà muốn ăn cơm mắm, ngồi xà lim cũng được…”.
“Mày đi Hà Nội không xin phép ai, đáng lý phải trị thẳng tay làm gương cho đứa khác nhưng Ủy ban tha thứ lần đầu. Còn mày làm những gì thì trong này đã có hồ sơ cả. Đời mày do mày định đoạt lấy. Muốn ăn cơm nóng, ở nhà với mẹ với vợ cũng được mà muốn ăn cơm mắm, ngồi xà lim cũng được…”.
Ngày nay đọc lại
đoạn văn này vẫn thấy “sởn gai ốc”.
KỲ 32
Chủ
tịch xã Môn là người “đạo gốc”, một “con chiên” của Chúa, nhưng nay đã
trở thành “con sói” giữa bày cừu, “một trong những địch thủ nguy
hiểm nhất của nhà xứ", “không thích làm những việc vụn vặt, tầm thường, bao giờ cũng đảm đương những nhiệm vụ khó nhất, phức tạp nhất người khác
không làm nổi", là một người
“ốm cũng không dám nằm thật, bị cảm đã mấy hôm vẫn ra trụ sở, hay “ngồi nhà
nhưng vẫn giải quyết công việc… vui lòng hy sinh đời mình cho công tác.” .
Người thay mặt chính quyền “mác-xít
hơn cả những người cộng sản” vậy tất nhiên cán cân phải lệch về phía
cách mạng trong cuộc đấu tranh “quyết liệt” “ai thắng ai”.
Thực
ra “ai thắng” quá rõ rồi, và đó không phải "đấu tranh một mất một còn” giữa hai
bên, mà chính là cuộc trấn áp tất cả những gì gây nguy hại tới quyền lực của
Đảng. Bởi thế người ta thấy mối quan tâm của ông Chủ tịch xã Môn chẳng nhằm phát
triển sản xuất nâng cao mức sống cho dân mà chỉ nhăm nhăm để ý coi nhà
thờ có biểu hiện gì xâm phạm tới “đường lối của Đảng và Chính phủ”.
Từ
việc nhỏ như xứ đạo mổ trâu ăn mừng Ban chánh trương mới ra mắt phải xin
phép tới thành lập hội kèn phục vụ lễ rước cũng thành chuyện “trong đại” phải
xem xét bên trong có âm mưu chống phá gì không? Khi “duyệt” cho nhà xứ thành
lập đội kèn, ông Chủ tịch Môn còn đặt điều kiện:
“Người trong hội kèn chỉ biết có thổi kèn thôi, ngoài ra không
được làm những việc gì khác, nói rõ ra là không được làm chính trị. Nếu
có thế nào thì ban chánh trương phải chịu trách nhiệm. Còn nếu bằng lòng đặt
dưới sự lãnh đạo của Ủy ban thì cụ thể phải nằm trong khối văn xã…”.
Ôi
thôi, thế thì Đảng cho người thay Cha “quản lý” việc đạo cho rồi.
Cán
bộ Đảng được Nguyễn Khải ca ngợi một tấc lên trời, ngược lại, các Cha đạo không “hám gái” cũng “hám tiền”.
Ở
xứ đạo có một bà góa mới ngoài 40, “nhưng còn tươi tắn khỏe mạnh lắm, khi
ông bõ ở nhà xứ chết thì ban chánh trương cắt cử bà vào thay”.
Bà góa này “ngày hai bữa cơm dâng Cha và các chú ăn, giặt giũ quần áo, chăn
lợn, làm vườn, dần dần cai quản cả thóc lúa và việc chi tiêu trong nhà xứ. Đêm
bà cũng không về nhà cứ ngủ trong cái buồng kho”.
Có
người đàn bà phây phây bên cạnh, làm sao Cha không động lòng trần tục. “Khi
thì bà lên buồng Cha Vinh bưng cơm rót nước, khi Cha Vinh xuống buồng bà hỏi
han công việc. Có một buổi trưa Cha đang ngủ bà sai cháu lên buồng cha gọi:
"Cha ơi Cha, bà con bảo Cha cởi áo cho bà con vá…”.
Ngoài
chuyện “gái gủng” ra, các Cha còn tìm mọi cách moi tiền của giáo dân... Ông
Bính, một con chiên ngoan đạo nhận xét:
“Các Cha xứ từ trước đã ăn mười phần thì nay nên thương con
chiên mà ăn năm thôi. Các Cha tải của về quê có nhiều chứ ăn là mấy. Làm thầy
nuôi vợ, làm thợ nuôi miệng, các Cha không có vợ thì cho bố mẹ, anh em, bà con…”.
Còn Cha Thuyết thì thu tiền của giáo dân theo giá “cắt” cổ:
“Ông kể lại một hôm ngồi hầu cơm Cha
Thuyết, được nửa bữa có người đến hỏi:
“Lễ sáng nay làm cho linh hồn vừa mới qua đời hết bao nhiêu?”.
Cha vừa ăn vừa trả lời:
“Hai vạn”.
Người kia móc tiền để vào đĩa, bốn tờ giấy năm nghìn còn mới.
Bữa cơm chưa xong đã có tốp đến mười bà dòng vào cũng để tiền vào đĩa dâng lên.
Cha ngưng đũa hỏi:
“Tiền gì?”.
“Trình Cha tiền tứ kỳ”*.
“Mấy vạn?”.
“Trình cha ba vạn mốt…”.
Cha lại cuộn tiền cho vào túi. Cha ăn chưa hết bát cơm mà được
món bổng những hơn năm vạn, mình vai vác cầy, tay dong trâu, làm hang đá, dựng
đèn đại khó nhọc hàng tháng chẳng được xu nào…”.
Các Cha đạo có “ăn tiền” như cán bộ ngày nay ăn phong bì không? Hay ông nhà văn
“bôi bác”, “vơ đũa cả nắm?".
Hình
như đã “ấn định” viết tiểu thuyết với chủ đề "xung đột” nên chẳng riêng gì các
cán bộ cốt cán như Môn, Nhàn, Thụy… mà ngay chính nhà văn Nguyễn Khải nhìn đâu
cũng thấy “xung đột”, nhìn cái gì cũng thấy “địch phá hoại”.
“Năm
ấy thôn Hỗ được mùa, “no ăn cho nên thanh niên đua nhau chơi diều sáo…. Thanh
niên chơi, cán bộ chơi, cả cụ già cũng thả diều… Ông trùm Hòa nói chuyện với
Môn, với Nhàn, với các cán bộ của xã: "Đấy, nhờ sự lãnh đạo của Ủy ban, năm
nay thôn nhà vui vẻ quá, đàn sáo suốt đêm…”.
Chơi
diều ở nông thôn là chuyện bình thường, nhưng tác giả cũng cố gài cho nó một ẩn
ý “chính trị”:
“Thôn xóm đương sầm uất vì việc đạo, vui vẻ phần đời thì vợ
Liêu ngồi bán hàng ở chợ Hỗ rỗi mồm kháo chuyện: "bây giờ ở dưới đất các ông
cán bộ tranh hết phần nói nên dân lại phải làm mồm ở trên giời…”.
Thế
là lập tức nhiều người phụ họa:
”Đấy, nghe kỹ mà xem, cái sáo nó cứ kêu: Cha ơi… Cha ơi… Cha
ơi….”.
Thế
rồi một số người xì xào to nhỏ với nhau:
“Bây giờ hoạ cộng sản dâng lên như nước thủy triều, không thể
đối địch với chúng được, càng cựa càng bị giây pháp luật thít chặt đành
phải nhờ tiếng sáo nó kêu khắp bốn phương may ra có thấu đến Chúa, đến đức Mẹ, đến các Cha ở miền Nam không?”.
Vậy
là giống đội cải cách “phóng tay phát động quần chúng” nhìn đâu cũng ra địa
chủ, qua tiếng sáo diều ông nhà văn cũng nghe thấy tiếng nói của bọn
“phản động”.
Sau
vụ “sáo diều” đến vụ làm “nhà nguyện”.
“Cũng
nhân dịp năm nay làm ăn xởi lởi nên một vài xóm rục rịch dựng nhà nguyện để sớm
tối giáo hữu đến đọc kinh, đỡ phải lên mãi nhà thờ xứ…”.
Thông
thường, chuyện dựng nhà nguyện có gì ghê gớm, nhưng ông nhà văn cũng lồng vào
đó “âm mưu phá hoại của nhà thờ”.
Thế
là nhân dịp Chú tịch xã Môn đi vắng nửa tháng, ông trùm Hòa xin phép bà Phó Chủ
tịch Nhàn dựng nhà nguyện. Bà này lý luận:
“Đứng về phía chính quyền mà xét thì việc dựng thêm nhà thờ họ
lẻ rất phù hợp với chính sách bảo vệ tín ngưỡng của chính phủ, đứng về mặt đạo
thì lại càng nên khuyến khích hơn, nước Chúa có được mở rộng thì mới có thêm
nhiều linh hồn được cứu chuộc…”.
Thế
là bà Phó Chủ tịch Ủy ban cho phép luôn.
“Ủy ban đồng ý buổi sáng thì buổi chiều họ xóm trại khởi công
xây dựng nhà thờ ngay… Văn phòng của ông chánh đốc công xây nhà thờ họ chật
ních người đến làm việc phúc đức. Giá thóc chợ Hồ xuống hẳn vì xóm trại đem
thóc đi bán nhiều quá…”.
Như
vậy nhà thờ phải làm vội làm vàng để qua mặt ông Chủ tịch xã. Nhưng rủi
cho mấy ông, khi nhà nguyện cất xong, sửa soạn làm lễ khánh thành thì ông Chủ
tịch xã đi công tác về.
Ngôi
nhà nguyện đã xây xong, ông Chủ tịch xã không ngăn cản được nữa, trong cuộc họp Ủy ban, ông thẳng thừng phê bình bà Phó Chủ tịch Nhàn “hữu khuynh” cho phép dân
xây nhà nguyện:
“Tôi thử hỏi các đồng chí chỉ riêng có một xóm trại xin làm nhà
thờ hay là cả miền này, cả tỉnh này đang
rục rịch yêu cầu thế? Có phải chỉ sau khi ông Lân nhân danh đức Cha đi kinh lý
các xứ mới sinh ra cái chuyện này không? Tại sao các xóm phàn nàn là hồi này gọi đi họp rất khó. Bây giờ chưa khó lắm đâu, nay mai mà để mỗi xóm lẻ mọc
lên một cái nhà thờ hoặc một cái nhà nguyện thì tối đến chỉ đánh chuông đến
boong một tiếng là cán bộ ngồi trơ một mình khai hội với bức vách. Đồng chí
Nhàn bảo tôi tả, nhưng tôi lại nhận xét đồng chí giải quyết các việc thuộc về
tôn giáo rất khờ dại. Cứ giải quyết theo hướng đó thì có ngày ủy ban đem vợ con
lên núi ở…”.
Và
ông gây sự bằng cách không cho tổ chức ăn mừng khánh thành và bắt mấy ông trùm
đạo mang hết sổ sách lên để ông… kiểm tra và chỉ đạo:
“... vôi nhà xứ đã có sẵn mười tạ, nay mua thêm hai mươi tạ nữa
là vừa đủ, xây hai cổng, xây tường hoa, quét vôi trong nhà thờ. Nhà thương
phía sau nhà cô mụ quá dột nát thì sẽ vận động các xóm góp rạ, góp tre lợp độ
dăm buổi. Ghế gãy đóng lại, nếu còn thiếu thì đóng thêm. Không nên mua chiếu
ngoài rất tốn, chỉ cần mua ít đay, ít cói rồi triệu tập thanh nữ, bà già
lại đánh đay, đem bàn dệt vào dệt…”.
Vậy
là ông Chủ tịch xã muốn làm cha thiên hạ, cai quản luôn cả việc đời lẫn “sự
đạo”. Ông “thò tay chỉ việc” cho nhà thờ sát sạt vậy chứng tỏ Đảng “quan tâm”
“ưu ái” tôn giáo lắm, thể hiện “chính sách tự do tín ngưỡng” sáng ngời còn kêu
ca nỗi gì?
Cũng
may, hồi đó nếu tiểu thuyết “Xung đột” của nhà văn Nguyễn Khải mà lọt vào
tay một chuyên viên phân tích của Tòa Thánh thì còn gì là những “lời hay
ý đẹp” về tự do tín ngưỡng của Đảng và Nhà nước ta?
* tiền dùng để cầu nguyện cho linh hồn người đã qua đời
KỲ 33
Chị Phó Chủ tịch Nhàn
cho dân "xây nhà nguyện”, “ăn mừng khai trương”, cứ ngỡ đứng về phía giáo dân,
ngờ đâu khi nghe ông trùm phát biểu “ý kiến” theo kiểu “tư cách công dân" trong một đất nước có luật pháp:
“Nói thẳng ra, cứ thế này mãi thì
khó ai tin được lời chị nói, khó ai tin được cái ủy ban này nữa. Dân bầu lên
thì dân cũng có quyền truất đi. Không dễ mỗi lúc bỏ tù nhau…”.
Chị ta cũng nhảy nhổm
lên vì quyền lực bị động chạm:
“Bây giờ ông định bàn
với tôi về làm nhà thờ họ hay muốn phê bình ủy ban?”.
Ông trùm họ tưởng mình
còn có cái gọi là “quyền công dân” vẫn gan lì:
“Chúng tôi là dân, chúng tôi không
biết đâu đến sự làm việc của ủy ban mà phê bình, ủy ban làm đúng hay sai thì tự
xét lấy…”.
Lập tức chị Phó Chủ
tịch trở mặt, nổi xung:
“Từ nay nếu ông
bàn với tôi về việc làm nhà thờ họ thì tôi vẫn hết sức nghe ông, nhưng ông lại
nói lếu láo, bậy bạ về ủy ban, gây dư luận không tốt trong nhân dân thì ủy ban
sẽ chiếu theo pháp luật mà giữ ông lại. Ngày xưa cũng thế, bây giờ cũng vẫn thế, đã làm bậy thì dù là Cha cụ, là chánh trương, trùm trưởng hay con chiên
thường cũng đều phải chịu xét xử như nhau, chẳng nể mặt một ai. Tòa Giám mục
cũng không can thiệp được vào công việc của chúng tôi, tòa thánh La Mã cũng
không dúng vào được công việc của Ủy ban. Ông đừng có dọa, tôi phụ trách
về tư pháp tôi biết hơn rõ ông...”.
Ghê gớm chưa, “thằng
dân” vừa mới mở miệng “phê bình chính quyền” bà Phó Chủ tịch xã đã tới tấp ra
đòn đánh dập đầu, đánh “tiêu diệt”, mang cả Tòa Thánh La Mã ra đe nẹt khiến
cho "mặt ông trùm đờ ra, môi nhợt trắng như người phạm lỗi bị bắt
quả tang…”.
Rồi tỏ vẻ “do dân, vì
dân” bà Phó Chủ tịch thổn thức:
“Tôi theo Chúa, tôi
theo Chính phủ, tôi theo cả hai mà không được sao? Ôi, lạy Chúa. Con cho họ
miếng bánh nhưng họ đã ném đá trả lại, con đến với họ với tấm lòng nhân từ của
mẹ, nhưng họ lại đối đãi với con như kẻ thù…”.
Kìm kẹp, thắt buộc
người dân thế mà dám bảo “cho
họ miếng bánh” với cả “đến với họ với tấm lòng nhân từ của mẹ”, còn
thằng dân mới chỉ “em xin phê bình cán bộ” vậy mà đã la làng lên “họ ném đá trả lại”, Giê-su-ma
lạy Chúa tôi, trên đời còn có ai xảo ngôn đến thế chăng?
Nếu như “Xung đột”
phần 1 (viết năm 1956) khép lại những “xung đột” giữa chính quyền và giáo hội
thì “Xung đột” phần 2 (viết năm 1961) mở ra những “xung đột” giữa con người
với “lợi ích vật chất”.
Trước hết là Cha
Thuyết, Cha linh hồn của cả giáo phận, được Nhà nước “quan tâm” cho đi mổ lấy
sỏi mật, bỗng dưng biến thành một người ca ngợi “miếng ăn, miếng uống”
sặc mùi “ơn Đảng, ơn cụ Hồ”.
Ta hãy nghe đấng chăn
chiên “hồ hởi phấn khởi” bốc thơm bệnh viện Nhà nước:
“Ôi chao, quý hóa quá
sức mình, cao trọng quá đỗi. Cái nhà thương rộng dễ đến một xóm của ta, cao
ngân ngất như đền thánh đức Mẹ ở Phú Nhai vậy…”.
Rồi Cha khoe được “ưu
tiên” hơn cả cán bộ xã:
“Này, thằng Thụy, con Nhàn có
ốm cũng chưa dễ đã được vào chỗ tôi nằm đâu. Lúc đầu tao cũng chẳng tin gì vào
cái khoa mổ xẻ, còn chần chừ lắm. Nhưng chính phủ đã bỏ công, bỏ tiền xây dựng
một tòa nhà to như vậy, nuôi hàng trăm ông bác sĩ thì tao chắc họ làm phải
giỏi…”.
Mổ bụng vậy mà Cha… không được đánh thuốc mê hay sao mà Cha một tấc đến trời:
“Lưỡi dao họ lách vào đến đâu tai
tao nghe rõ đến đó, nhưng chẳng đau đớn gì sốt. Để tôi lấy bà lão xem cái vật
quý này – Cha chạy vào mở tráp cầm ra một cái gạc bông. Bà đã thấy chưa, lúc
họ mới đưa tôi để làm kỷ niệm nó to bằng ngón tay cái sờ rắn như đá sỏi. Nó nằm
trong bầu mật dễ đã hàng chục năm nay, cái cơn đau vừa rồi mà ở nhà quê chắc là
chết….”.
Rồi Cha bầy tỏ tình
cảm của mình với cái nhà thương mà Nhà nước đã cho Cha nằm:
“Một tháng ở đấy
thanh nhàn vui sướng chẳng nói được, toại lòng phỉ chí đến không muốn ra về
nữa…”.
Đến cái cách Cha ca
ngợi “miếng ăn hàng ngày” mới thật thảm hại:
“Cha cười ầm ầm:
“Min ăn suốt ngày,
thật như con trẻ, bốn bữa, năm bữa, mỗi bữa ăn một vực cơm đầy. Bây giờ thì min
có thể sống thêm được vài chục năm nữa…” .
Được chút “bổng
lộc” Nhà nước, Cha trở giọng chửi bới Cha Lân Tòa Giám mục vốn là người
đang bị chính quyền nghi ngờ kích động giáo dân:
“Tao cứ trông thấy thằng Lân ở đâu
là chỉ muốn lánh mặt. Nó chỉ đem phiền muộn đến cho mình. Muốn an nhàn một chút
cũng chẳng được. Cái thứ ấy chẳng liên quan gì tới tao, tao là đấng chăn chiên
thì chỉ biết vâng theo lệnh bề trên thôi…”.
Ngay với đức bề trên
trực tiếp là Cha Tuệ, giám quản địa phận Bái, Cha cũng giở giọng bóng gió với
ông Thường trực Ủy ban xã:
“Tao thấy ở đời này
lắm người có đạo mà lại hay bỏ vạ cáo gian, đức hạnh nết na chả
có, lòng đầy rẫy những sự ghen tuông, hờn giận, oán thù. Mặc áo thầy tu mà
trong lòng thì dữ tợn quá con quỷ…”.
Sau khi đặt vào miệng Cha những lời bôi xấu Cha bề trên, ông nhà văn lại biến Cha thành kẻ “chỉ
điểm”:
“Ông Tuệ có ý
mời các Cha trong địa phận về Bái họp, áng chừng muốn dùng số đông khiếu nại
lên chính phủ…”.
Và Cha bầy tỏ lòng quy
thuận:
“Nhưng bây giờ thì tao mặc, tao cũng
có nói với lão Lân rằng: ở Tòa Giám đã có đức giám quản sáng suốt khôn cùng,
đã có Cha chánh xứ, Cha cố vấn, hội đồng tư vấn gồm toàn những con người khôn
ngoan rất mực thì còn cần gì đến những thằng già lẩm cẩm chỉ biết giảng kinh,
giải tội cho con chiên, chỉ biết chú mục làm việc Chúa cho danh Cha cả sáng…”.
Rồi Cha nộp cho nhà
cầm quyền thư của Cha Giám quản gửi cho Cha:
“Trong cuộc giao tranh thiêng liêng
để chiếm nước thiên đàng, đạo binh hùng dũng nhất là đạo binh cầm tràng hạt Mân
Côi chứ không phải là khí giới cầm tay…”.
Than ôi, chẳng lẽ mới
chỉ được bố thí chút lộc chữa bệnh mà Cha đã bán linh hồn ca ngợi kẻ cầm quyền
và tố cáo người trong giáo hội sao?
Quả thực, vạch trần
“chân tướng” linh mục, giải “cây bút vàng” phải giành cho Nguyễn Khải
trong Xung đột 2.
Thế rồi Cha mồi chài,
làm sa đọa đến cả “đồng chí” Thụy, thường trực Ủy ban:
“Rồi Cha móc túi lấy
ra một cuộn bạc chẳng cần đếm là bao nhiêu đưa cho Thụy. Từ đấy Thụy là người
cai quản hết thảy mọi việc… qua mỗi việc Thụy lại lên trình bẩm với Cha và lần
nào về cũng đưa cho vợ hàng gói bạc…”.
“Đáng lý chỉ cần một trăm thì cha
lại vứt ra một trăm rưởi. Cái con số lẻ ấy mới đầu như chênh vênh nhưng dần
dần nó đã tìm được chỗ đứng vững chắc…”.
Thế là từ đó mâm
cơm nhà Thụy không chỉ là “rau muống luộc chấm nước cáy” nữa, “vợ
Thụy đã phải lăn xuống bếp: hôm giết con gà, hôm đánh bát tiết canh vịt, rồi
nào lòng xào, lòng nấu miến, khúc cá rán, khúc nẩu riêu, rau muống cũng phải
xào đẫm mỡ…”.
Đồng chí thường trực ủy ban thay đổi hẳn, “toàn
một giọng hỉ hả, đài các, toàn những chuyện may sắm, lựa chọn cái này
cái nọ, tính toán giá gỗ đóng giường, giá vải hoa làm màn che, cái phích đựng
nước nóng, bộ ấm pha trà…”.
Ôi lạy Chúa, cán bộ hư
hỏng? Đó là lỗi tự nhà thờ.
KỲ 34
Hóa
ra từ thời đó đã hiển hiện loại người mới xuất hiện sau cách mạng:“cán bộ”. Tham lam vật chất, khăng khăng giữ
ghế, sẵn sàng hạ độc thủ bất kỳ ai động chạm tới ghế của mình. Hình ảnh
ông Thường trực ủy ban xã đúng là chân dung tiền bối của quan chức các cấp thời
bây giờ. Có điều, ông nhà văn chỉ dám dựng nhân vật đó như trường hợp cá biệt,
“con sâu làm rầu nồi canh”, còn tuyệt đại đa số cán bộ ta vẫn chí công vô
tư, hết lòng vì nước vì dân. Và tin tưởng sắt đá loại “cán bộ tiêu cực” như Thụy
nhất định sẽ bị đào thải:
“Hơn nửa năm nay… Thụy không còn
được đảng viên trong chi bộ tín nhiệm nữa. Kỳ bầu ban chi ủy vừa qua, Thụy chỉ
được vỏn vẹn có hai phiếu, một lá của Môn và một nữa chắc do Thụy viết…”.
Nhà
văn tuyệt nhiên không dám thừa nhận loại cán bộ như Thụy mới chính là “nhân vật
thời đại”. Nó như ký sinh trùng ngày càng sinh sôi nảy nở, hằng hà sa số, sống
bám trên cơ thể dân tộc, đục khoét, ăn cắp từ tiền bạc, địa vị xã hội tới tài
nguyên, môi trường, phá hoại những di sản quá khứ và làm băng hoại những giá
trị tinh thần và đạo đức xã hội.
Sau
khi cải cách ruộng đất phá tan đạo lý cổ truyền làng quê Việt Nam, vài năm sau
Đảng lại rầm rộ phát động hợp tác hóa nông nghiệp chỉ hơn 20 năm sau đã
phá hủy gần hết năng lực canh tác trên ruộng đồng.
Tuy
nhiên mãi tới năm 1986, tính chất phá hoại đã rõ rành rành, cái chết nó gây ra
đã tới sau lưng, Đảng mới ngấm ngầm xóa bỏ nó bằng việc trả lại ruộng đất cho
dân và giải tán các hợp tác xã nông nghiệp.
Sự
sụp đổ của công cuộc hợp tác hóa nông nghiệp kéo theo cái chết hàng loạt tác
phẩm lừng lẫy một thời: Cái
sân gạch, Vụ lúa chiêm của Đào
Vũ, Đất làng của Nguyễn thị Ngọc Tú và cả Xung đột (tập 2) của
Nguyễn Khải… Bao nhiêu thành tích, bao nhiêu tính ưu việt, bao nhiêu đổi thay
tích cực của bộ mặt nông thôn, bao nhiêu đổi đời sung sướng của người
nông dân được các nhà văn tô vẽ, tâng bốc lên mây xanh bỗng chốc tan
tành sương khói bới cái nghị quyết “khoán sản phẩm” của Đảng -
thực chất là sự cáo chung cho “lề lối làm ăn tập thể”, cho “hợp tác xã nông
nghiệp” mà suốt mấy chục năm các nhà văn của Đảng ra sức tô vẽ.
Trong
Xung đột – phần II, “vào ngày lễ mở đầu tháng đức Mẹ cũng là ngày thứ ba của cuộc “vận động
hợp tác hóa” sôi nổi, rầm rộ suốt tám xóm trong xã. Mỗi xóm thành lập một ban
vận động gồm những người trong ban quản trị hợp tác xã cũ, đội trưởng đội sản
xuất và một vài người mới nữa. Tiếng trống, tiếng loa nổi lên từ lúc chuông
nhất và chỉ tắt đi vào khoảng gần nửa đêm…”.
Chống
đối lại cuộc vận động đó, theo ông nhà văn, tất nhiên chỉ có… nhà thờ:
“Tiếng
loa của đức chúa Trời và lời giảng hùng hồn của cha Lân “đối lập với “tiếng trống của
người thế gian và lời lẽ vận động đầy sức thuyết phục của cán bộ xã" làm cho “cuộc sống ở thôn Hỗ cứ náo
động suốt đêm ngày. Không có tiếng súng nổ nhưng tâm trạng con người thì giống
hệt như trong một trận chiến đấu. Cũng có những người kiên quyết và những kẻ
dao động, tin tưởng và bi quan, phẫn nộ và bình tĩnh…”.
Đó
là cuộc chiến tranh được ông nhà văn “tô vẽ” giữa “nhà thờ” và chính quyền cộng
sản đại diện là mấy ông cán bộ xã. “Tiếng
loa của đức chúa Trời “chẳng
thấy đâu nhưng lời giảng được cho là của Cha:
“Hiện nay ma quỷ đang dùng thóc gạo
làm chước độc để mê hoặc linh hồn các con. Song các con hãy nhớ lời Chúa đã
từng phán tỏ tường rằng: bay lo ngày mai mà làm chi, đến ngày mai sẽ hay, bởi
chưng sự khốn khó ngày nào đã đủ cho ngày ấy…”.
Không
những chẳng lọt được vào tai giáo dân:
“không nói đâu xa xem như vợ chống
thằng Quảng kìa, chồng vay hợp tác xã được mấy chục cân thóc
gánh về, vợ đã mặc áo ra nhà thờ thấy thóc cởi cả áo ra, chồng xay vợ
sàng hì hụi từ chập tối đến nửa đêm, vừa làm vừa đùa bỡn nhau dễ còn vui
hơn cả lễ Phục Sinh…”.
mà
còn bị bôi bác:
“Ấy vậy mà Cha mới nói là ma quỷ dùng thóc gạo cám dỗ nên người
thế gian mới bỏ cả đức tin, bỏ cả Chúa…”.
Vậy
là “cha” thua một cách dễ dàng, nông dân ào ào nộp đơn vào hợp tác xã. Ông nhà
văn diễn tả một ông bố sai con viết đơn với nhiệt tình và lòng thành kính
như viết đơn cho Chúa Giê Su xin lên… thiên đàng:
“Vui, này lấy giấy bút ra đây tao muốn nhờ mày một việc…”.
Cô
con gái lấy tờ giấy mực lem luốc, lập tức bị ông bố mắng:
“Mày coi khinh bố mày thế hả con,
không nỡ cho bố một tờ giấy đẹp đẽ ư?
Đã dùng vào việc cao
trọng thì chớ lấy những thứ dơ dáy...”.
Rồi
ông quay sang vợ:
“Cả đời chỉ có một lần. Bà hiểu cái việc tôi nói là việc
gì rồi chứ?”.
và
lệnh cho con:
“Lấy vạt áo lau sạch cái ngòi bút đi thì nét nó mới thanh được.
Bắt đầu như thế nào nhỉ? Việt Nam Dân chủ Cộng hòa… năm thứ mười lắm…”.
Trong
thực tế, lùa được nông dân vào hợp tác xã là một việc phải thúc ép, cưỡng chế
vậy mà ông nhà văn “tâng” lên thành một thứ ý nguyện thiết tha của dân làng.
Ông còn “mượn mồm” một bà nhà quê để ca ngợi cái ưu việt của lề lối “làm ăn
tập thể”:
“Như nhà tôi chỉ riêng khoán cày khoán bừa hai mẫu cũng mất đứt
hai chục thóc rồi. Cái trò đem trâu cày ruộng nhà người đến mùa lấy thóc thì làm
kỹ sao được… Còn vụ vừa rồi ai cày ai bừa mặc ai, chị em chúng tôi cứ ra công
cấy, làm chung ăn chung, anh làm dối thì cái cót thóc của anh cũng ít…”.
Ca
ngợi “làm chung ăn chung” như vậy, ông nhà văn đâu có biết cái kiểu “tập
thể hóa" đó khác gì “cha chung không ai khóc” khiến đồng ruộng bỏ hoang, mùa
màng thất bát khiến Đảng lại phải giải tán “làm chung” trả ruộng đất về cho ai
nấy làm. Ngày đó chắc ông Nguyễn Khải chưa nhận ra hoặc nhận ra mà vẫn giả ngu,
vẫn nhiệt tình ca ngợi cái lợi của hợp tác xã qua mắt bà nông dân:
“Tôi chẳng gì cũng nhiều tuổi hơn
các chị, cái khổ cái sướng đã trải qua, trước khi vào hợp tác xã tôi cũng tính
toán chán, nếu không có lợi thì tôi vào đầu làm gì… Lạy Chúa, từ ngày biết làm
người tới giờ, chỉ có mỗi vụ chiêm vừa rồi vào hợp tác tôi mới nhàn nhàn cái
thân chút ít…”.
Tất
nhiên vào hợp tác xã không chỉ đánh trống ghi tên, khối người lừng khừng,
đắn đo để rồi:
“Không vào cũng chẳng được, họ vác
trống vác loa đến tận đầu nhà kể lể, than vãn nghe nẫu cả ruột chứ dễ được yên
ư? Hết tốp cán bộ này ra, lại đến tốp khác nối chân vào. Ngồi tiếp
chuyện các ông ấy thì mất ngày mất buổi, lánh mặt lại sợ họ bảo mình có ý
tứ gì…”.
Vậy
là cả làng cả tổng đều ‘tiến bộ”, đều thành xã viên hợp tác xã chỉ trừ ra có
mỗi… ông linh mục, khiến bà con phàn nàn:
“Ông Tam ạ, tôi xem ra các Cha mà
tiến bộ được như mình thật là khó. Mình theo chế độ mới nào có mất gì, chỉ được
thôi, còn các ông ấy mà theo ta thì túi tiền vơi đi quá nửa…”.
Thế
rồi ông nhà văn lấy "dạ tiểu nhân đo lòng quân tử”, lấy cái “tâm lúc nào cũng
lo ăn” để phân tích các Cha tinh thần:
“Tôi tính cho các ông các bà nghe
nhá. Trước kia ở tổng này có ba chục thằng địa chủ, đứa nào hàng năm chẳng có
mấy ngày giỗ kỵ cha mẹ, tổ tiên, lại sửa một mâm chén, tiền lễ đưa Cha để Cha cầu nguyện cho. Vậy là một món. Nhà nào có cha già mẹ héo cũng phải cố thu
xếp mời bằng được Cha đến làm phúc, cơm ăn rồi còn tiền đưa tận tay cho Cha
cầm về. Một năm một lần làm lễ kỳ hồn cho cả xứ, gia đình nào cũng phải đưa
tiền, neo túng thì hai ba đồng, sang trọng thì từ một trăm trở lên. Ba món
nhé!... Chả trách người ta đồn vàng ở Tòa thánh còn nhiều hơn cả thế gian gộp
lại…”.
Nhìn
nhận về Thiên chúa giáo như vậy, quả thực ông nhà văn Nguyễn Khải xứng đáng là
người…"duy vật”. Chỉ có điều tới ngày nay nếu có dịp đọc lại tác phẩm của mình,
hẳn ông nhà văn phải cay đắng thừa nhận rằng cái “hợp tác xã nông nghiệp” mà
ông hết lòng ca ngợi đã sụp đổ từ tám đời, nay chỉ còn là cái “bia miệng” cho
thiên hạ chê cười, còn cái nhà thờ mà ông ra sức bôi bác vẫn cứ lừng lững
mà xem ra mỗi ngày cái “sự đạo” lại thêm tưng bừng náo nhiệt.
Tuy
thế đọc kỹ Xung đột cũng có thể lọc ra ít nhiều dấu ấn của cái thời đại “hợp tác hóa nông nghiệp” kinh hoàng đó.
Vợ
chồng nhà Lận trong làng có con trâu sẽ phải đưa vào hợp tác xã nhưng được hóa
giá quá rẻ nên tự mổ thịt bán cho bà con trong xóm. Đó là tội ác tày đình, chỉ
tiến hành lén lút ngoài bờ đê trong lúc Chủ tịch xã đi vắng. Trong số những
người chạy ra đám mổ trâu mua về xâu thịt có ông Phó Chủ nhiệm Tam mà vì “đến
mấy tháng nay mâm cơm không có được miếng thịt" nên “đụng vài cân cho trẻ nó
xởi lởi”.
Thịt
trâu ăn vào bụng cả nhà rồi chẳng ngờ ông Môn, Chủ tịch xã đi họp về biết
chuyện, mắng xa xả:
“Con trâu khỏe mạnh thế mà nỡ giật
ngửa ra ở rìa đê mổ thịt. Thằng Minh gộc pha thịt, thằng Long chọc tiết. Phen
này ông cho cả lũ đi tù, chúng nó định làm loạn à?”.
Ghê
gớm chưa? Người dân ăn có miếng thịt trâu của chính mình mà ông Chủ tịch
xã đã dọa “cho cả lũ đi tù” thì hóa ra ở cái xã hội ưu việt này, con người ta
lúc nào cũng sẵn sàng… đi tù. Riêng ông Phó Chủ nhiệm Tam, trót dại vì
thương con cái thèm thịt mua về một xâu, ông vừa lo bị Chủ tịch xã dằn vặt, vừa
lo “mất uy tín” “hàng trăm
cặp mắt chế giễu, căm giận, hàng nghìn lời nói đay nghiến, chì chiết sẽ bao vây
lấy anh, tấn công anh và kẻ bị hành hình đã đành không thể sống nổi cũng không
chết ngay được…”.
Ôi
chao ôi, xã hội gì kỳ quặc, ăn có miếng thịt trâu mua bằng chính đồng tiền của
mình mà ông Phó Chủ nhiệm Tam phải điêu đứng thế đến nỗi ông
phải than trời:
”Ôi, tủi nhục quá, cay chua quá và dại dột không biết chừng
nào… Đằng nào thì trong ngày hôm nay địa vị của anh cũng sẽ thay đổi. Anh sẽ được nghe những tiếng hò reo gian ác, khoái trá của Đoàn và đồng bọn:”Tưởng gì, hóa ra cũng là một anh đạo đức giả".
Và Tam quay mặt đi khóc nức nở…”.
Muốn
khóc gì thì khóc, trót ăn miếng thịt trâu rồi, ông Phó Chủ nhiệm sẽ đưa ra
đại hội xã viên xem xét và bị Chủ tịch xã Môn chửi xơi xơi vào mặt:
“Anh không xứng đáng, anh phụ lòng
tin cậy của tôi, của cả chi bộ. Thằng địch có đâm tôi một nhát dao vào giữa
ngực cũng không đau đớn bằng cướp đi của tôi một người bạn. Thế là anh đã
chết rồi, phải coi như là anh đã chết rồi. Biết vậy mà không sao cứu
được nữa…”.
Ôi
chao ôi, từ cổ chí kim, trên khắp mặt địa cầu này, có lẽ chẳng ở đâu chỉ vì bỏ
tiền túi ra mua một miếng thịt trâu bỏ miệng mà bị rủa xả nhục nhã, coi như đã
chết rồi đến như vậy. Chỉ nguyên cái chuyện “thịt trâu mổ lậu”, Nguyễn Khải đã
“vô tình” lột trần tính phi nhân trong quan hệ đồng chí. Bởi vậy không phải
“thân yêu nhau chúng ta gọi đồng chí”, mà chính là trong hội nghị sắp sửa sát
phạt nhau, hai chữ “đồng chí” mới được dùng để đưa nhau lên thớt.
KỲ 35
Phó Chủ nhiệm
ăn thịt trâu bị xử nặng thế, tất nhiên vợ chồng Lận, thủ phạm chính giết trâu
của mình, tội còn lớn gấp
bội. Từ sáng sớm còn nhọ mặt người, ông
Chủ tịch xã Môn đã cho đánh trống họp ban quản trị và kế toán trưởng hợp tác xử
vụ giết trâu. Vợ chồng Lận được kêu đến. Người đàn bà khốn khổ không dám đứng
chỉ “lom khom nhìn ngó
xung quanh rồi lại thụp xuống ngay” rồi thưa gửi:
“Thưa với
chư ông trong nhà túng bấn quá nên tôi cũng có chót bán đi lấy ít tiền để trang
trải công nợ ạ…”.
“Bà bán
trâu, tậu nghé, mưu mẹo lắm…”.
Và cuộc hỏi
cung diễn ra với những câu hỏi như quan tòa với tội phạm: "Bán cho nhà ai? Ở
đâu? Trong việc bán trâu này ông bà có bàn tính với nhau không…?”.
Hỏi xong vợ
rồi hỏi đến chồng. Anh chồng bí quá đổ thừa cho vợ tự ý bán trâu làm bà vợ ông
Chủ tịch xã phải nói chen:
“Thế ra quyền bà ấy lại to hơn cả ông à?”.
Vậy là vợ ông
Chủ tịch xã không chỉ “dắt mũi” chồng khi ở nhà mà còn ra cả “công đường” phụ
với chồng xử tội người khác. Sau cùng ông Chủ tịch xã luận tội “bán trâu”:
“Việc bán
con trâu nhà ông, dù có vợ bán hay chồng bán cũng mặc, dứt khoát là phạm pháp.
Tư pháp sẽ có trách nhiệm xét xử việc này…”.
Và chẳng cần
chờ “tư pháp” xét xử, ông Chủ tịch xã quyết định luôn:
“Còn con
nghé hiện nay ông mới mua ủy ban sẽ quản lý…”.
Gọi là “quản
lý” nhưng thực chất Ủy ban cướp trắng tài sản của dân đen khiến nó phẫn uất:
“Cứ việc. Chính quyền có tịch thu tôi
cũng không dám kêu ca gì. Xưa
nay bị cướp bóc đã nhiều chứ chẳng phải mới có lần này… Đ… mẹ cả đứa mua lẫn
đứa bán đều là dại cả. Xin chào chư
ông thôi ạ. Thế bao giờ ông Chủ tịch cho người sang dắt nghé tôi đây?”.
Một phiên “xử
án” tịch thu tài sản của đương sự còn tệ hại hơn lý trưởng, chánh tổng ngày xưa
trong đó “phu nhân của quan lớn” cũng nhảy bổ vào kết án thằng dân.
Vậy là trong
một xã mọi quyền sinh sát, mọi việc lớn nhỏ từ miếng ăn cho tới việc làm, mọi
số phận người dân đều nằm trong tay duy nhất một người: ông Chủ tịch xã. Để
thực thi cái trách nhiệm nặng nề ảnh hưởng trực tiếp tới số phận cả mấy ngàn
con người, ông Chủ Chủ tịch xã Môn là người thế nào?
Thật đáng lo
ngại, ngoài lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, nắm thật vững và thi hành mù
quáng mọi chủ trương đường lối Nhà nước, ông Chủ tịch xã mù tịt kiến thức phổ
thông khiến có lúc ông hỏi thật ẩm ương khi nghe nói về tên lửa Liên Xô phóng
lên trời:
“Tôi còn thắc mắc một điều là ví như
cái tên lửa nếu nó bay được cao nữa thì có chạm phải nền trời không?”.
Khi được giải
thích cặn kẽ, ông vẫn còn chưa thông:
“Vậy cái tên lửa nó bay mãi như thế
mà không vướng núi ư? Đến một đoạn nào đó tất cũng phải rơi xuống chứ?”.
Nghe giải
thích: "trái đất mình ở nó
tròn như quả cam, quả bưởi lơ lơ lửng lửng giữa không gian chứ có bám víu vào
đâu đâu. Còn tên lửa là bay vòng bên ngoài kia…”.
Ông Chủ tịch
xã vẫn chưa hiểu:
“Rắc rối
nhỉ. Mỗi tuổi mỗi nghe thêm nhiều chuyện lạ. Kể cũng hay…”.
Hóa ra trình
độ hiểu biết của ông Chủ tịch xã vẫn thuộc vào thời… ông Copernic phải lên giàn
hỏa vì dám nói “trái đất nó quay”. Trình độ như vậy các ông cán bộ cách mạng có
thể quản lý và bóp nghẹt mọi hoạt động tâm linh của nhà thờ, có thể cướp ruộng,
cướp nghé của người dân vô tội, có thể đưa ra Tòa kết án kẻ làm thịt trâu của
chính mình. Những việc đó họ làm thật xuất sắc vì chẳng cần dùng gì tới kiến
thức phổ thông của nhân loại.
Tuy nhiên họ
không thể làm cho cánh đồng tăng năng suất lúa, đàn gia súc tăng trưởng nhanh
bởi lẽ họ mù tịt về khoa học kỹ thuật tiên tiến và hiện đại. Trong lúc thế giới
đang phát triển như vũ bão về phát minh, phát kiến, về cuộc cách mạng xanh,
thay vì mở toang cửa đón nhận mọi thành tựu nhằm nâng cao phúc lợi, cải thiện
đời sống người dân, họ lại đóng cửa xua mọi người vào cuộc tranh giành, đấu
tranh giai cấp gây nên
những tổn hại không sao kể xiết. Sau khi giành chính quyền, họ giỏi chia chác
“cái bánh” trong đó người
cầm cày nhận phần tối thiểu khỏi chết đói chứ tuyệt nhiên họ không đủ đầu óc và nhiệt tình động
viên tất cả mọi người làm cho miếng bánh ấy lớn thêm để phần bánh của mỗi người
được to ra. Đó quả thực là thông
điệp toát ra một cách khách quan, ngoài ý muốn của nhà văn Nguyễn Khải qua tiểu
thuyết Xung đột.
Với bà con xã
viên, chính quyền còn thắt buộc thế, vậy đối với “ nhà thờ”, tất nhiên phải coi
như… kẻ thù dân tộc, luôn âm mưu phá hoại chính quyền. Ông Chủ tịch xã Môn, coi Cha xứ Thuyết là “tinh khôn quá kẻ cướp” và huỵch toẹt:
“Tôi biết
thừa mấy tay linh mục chỉ hay mè nheo với cấp tỉnh vì các ông ấy phải giữ đúng
chính sách mà, còn ở xã ấy à, một phép…”.
Ông Chủ tịch
xã vô tình đã lật tẩy cái “tự do tín ngưỡng “ của Nhà nước – chỉ cần tỏ vẻ “tôn
trọng” tôn giáo ở cấp tỉnh thôi, còn dưới cấp xã tha hồ chèn ép. Chính vì thế gã mới
khoe khoang:
“Ngay như
tay Vinh tự xưng là thánh Tô-ma thời nay vậy mà mỗi lần gọi ra ủy ban mặt cắt
không còn hột máu…”.
Chính phủ
trung ương chỉ đạo chính quyền cấp xã thế nào mà các linh mục mỗi lần bị gọi ra Ủy ban đều phải run sợ thế? Một tay chót bét trong bộ máy chính quyền cũng có thể mắng sa sả vào mặt các
nhà tu hành về chuyện chủng viện đào tạo thầy dòng:
“Tôi có lần đã nói thẳng với ông
Thuyết ở đây: các ông đừng có lập lờ, chỉ bịp được các con chiên ngu dốt chứ
cán bộ chúng tôi thì nhìn thấy tận cuống ruột các ông, chủng viện gì, trường
đào tạo gián điệp đấy thôi…”.
Tất nhiên cấp
trên phải gỉ tai thế nào gã cán bộ cấp xã mới dám “công xúc tu sĩ” ngay giữa
công đường:
“Trường gián điệp (tức chủng viện)
ngay giữa miền Bắc này, chẳng những không ai dám đả động đến nó mà còn phải
cấp cả gạo ăn, than đốt, giấy bút học, thỉnh thoảng lại còn văn công, xi nê để
giải trí nữa…”.
Nếu "chủng
viện” đúng vậy thì chắc chắn đó là “trường quốc doanh đào tạo cán bộ tôn giáo
vận” đội lốt chủng viện. Chắc ông Chủ tịch xã “ngây thơ” không hiểu được điều
cơ mật đó, nên cứ ra rả mắng mỏ học sinh chủng viện:
“Mấy đứa người xã này đi học ở Bái tôi biết, khi đi
chúng nó nết na, hiền lành thế, học được
một hai năm về thăm nhà mặt
mũi đã nhâng nháo như kẻ cướp, ăn nói hỗn xược, toàn xui gia đình phá chính
sách, có đứa mang cả tài liệu chống cộng về phân phát trong xóm…”.
Sự thực trong
lòng xã hội miền Bắc những năm 1960 không khí khủng bố khét lẹt, làm gì có
chuyện mấy đứa học sinh dám mang “tài liệu chống cộng về phân phát trong xóm”.
Trong thời kỳ này, một anh cán bộ Đài Tiếng nói Việt Nam, nhà thơ Tuân Nguyễn chỉ đùa hai câu
thơ vui:
“Tiến lên
ta quyết tiến lên
Tiến lên ta
gọi cấp trên bằng… thằng”.
Chỉ mới “đùa
chút ” thôi đã phải đi cải tạo, huống hồ “phân phát tài liệu chống cộng trong
xóm” thì tội đáng… lăng trì, xử trảm, ai dám to gan thế? Xem vậy đủ biết Chủ
tịch xã Môn vu cáo nhà thờ trắng trợn đến đâu. Gã còn quy kết:
“Mình là
hàng cha chú chúng nó, có đến chơi thì giương mắt đứng nhìn, hằn thù cán bộ còn
hơn cả quân Pháp ngày xưa. Mới mười bốn mười lăm tuổi đã thành phản động con cả, nữa là để chúng nó dạy dỗ nhau năm mười năm nữa…”.
Một ông cán bộ
mặt trận tỉnh tên Mẫn được phái về tăng cường cho xã lẽ ra phải uốn nắn Chủ
tịch xã thái độ ứng phó với nhà thờ sao cho kín đáo uyển chuyển hơn, đằng này
lại phụ họa, hung hăng không kém trong thù ghét nhà thờ. Ông
cán bộ tỉnh nhận xét các linh mục thật coi người bằng nửa con mắt:
“Bọn ấy tuy chẳng tài ba gì, trước
sau vẫn một ngón võ nấp sau lưng con chiên thôi, nhưng đừng tưởng họ ít thủ đoạn đâu nhé. Đức Giám quản vừa cho cánh
mình một vố khá ngọt đây…”.
Tưởng “vố” gì
ghê gớm, hóa ra chỉ là lời đùa
bỡn của linh mục Tuệ với cán bộ Mẫn:
“Tôi sinh đúng vào năm cách mạng
tháng Mười, đến cách mạng tháng Tám thì được truyền chức linh mục, hòa bình lập
lại làm Giám quản địa phận. Đời tôi thế là dính liền với cách mạng đấy nhé…”.
Cán bộ rủa xả,
nhục mạ linh mục thì không
sao, ngược lại linh mục chỉ nói giỡn vài câu với cán bộ đã bị coi là… khiêu
khích cách mạng.
Thực ra cái số
cán bộ thù ghét nhà thờ “ghi xương khắc cốt” kiểu như Chủ tịch xã Môn
với cán bộ Mặt trận Mẫn là không nhiều; bởi lẽ chính họ cũng từ giáo dân mà
ra, vợ con, bố mẹ họ vẫn là những con chiên ngoan đạo, hà cớ gì họ phải “báng
bổ” nhà thờ đến vậy? Trong khi đó họ vẫn được Đảng và Nhà nước nhắc nhở về
“tôn giáo vận”, vẫn được
dặn dò cần phải có sách lược mềm dẻo, linh hoạt “tỏ rõ” chính sách tự do tín
ngưỡng của Đảng chính phủ kia mà?
Ông nhà văn
Nguyễn Khải “vẽ rắn thêm chân”,phóng đại lòng “căm ghét nhà thờ” trong giới cán
bộ xã và tỉnh liệu có phải để chính ông bày tỏ sự dứt khoát từ bỏ gốc gác thầy dòng
của ông, từ bỏ theo kiểu chặt cầu và không khoan nhượng để được Đảng tin cậy. Quả thực
có lớn tiếng mượn mồm người khác mạt sát nhà thờ, ông nhà văn mới tỏ rõ được
lập trường giác ngộ giai cấp, giác ngộ Đảng quyết liệt, từ trong tim, trong máu
chứ không phải chỉ là ở đầu môi chót lưỡi.
Lập trường này
càng củng cố khi sau 1975 Nguyễn Khải gặp lại gia đình đã di cư vào Nam, ông
vẫn quyết liệt lên án họ trong “Gặp gỡ cuối năm” làm yên lòng Đảng. Bởi vậy trong thời kỳ văn nghệ
sĩ miền Bắc bị khủng bố gắt gao nhất, Nguyễn Khải vẫn luôn luôn là đứa con
cưng được Đảng bao bọc và ấp ủ trong vòng tay của “văn nghệ quân đội”.
Công lớn của
Nguyên Khải trong “Xung
đột” không chỉ hạ uy tín nhà thờ mà còn tô vẽ hợp tác xã thành bộ mặt thật tốt
đẹp chứng minh chủ trương tập thể hóa nông nghiệp của Đảng là cực kỳ ưu việt và
sáng suốt. Cái sự “tô vẽ” ấy đôi khi quá đà khi ông “bịa” lời một anh nông dân tên Điệp bênh che
cho việc Nhà nước cướp ruộng, cướp trâu của nông dân:
“Sống ở xã này mỗi năm một thấy
khác. Có hai bác tôi xin nói thật, nhân dân ở đây họ có tin ở chính phủ lắm mới
trao ruộng, trao trâu cho hợp tác xã, cơ nghiệp hàng mấy đời người chứ đâu phải
chuyện bỡn…”.
Rồi cũng chính
anh nông dân này “ca ngợi” Nhà nước đã ‘cướp thóc của dân”:
“Cứ lấy việc thu thóc nghĩa thương
vụ mùa năm ngoái mà suy thì ai cũng phải phục cái sáng suốt của huyện của tỉnh.
Ngày ấy không kiên quyết thu thì bây giờ lấy đâu ra thóc cứu đói…”.
Hóa ra “thuế
nghĩa thương” là thuế thóc
dự trữ để khi nào có thiên tai đói kém thì Nhà nước khỏi phải lấy quỹ thóc quốc
gia ra cứu. Thật là một sắc thuế độc nhất vô nhị trên thế giới. Mượn mồm anh
nông dân, ông nhà văn tiếp tục ‘tô vẽ”:
“Năm Ất Dậu ngoài chợ Hỗ thóc bán có
năm đồng một thùng mà người chết đầy đường, năm nay thóc bán tám chín đồng,
mười đồng cũng là , vậy mà không nhà nào đến nỗi phải nhịn cơm hai bữa…”.
So sánh giá
thóc năm 1945 theo tiền Đông
Dương với giá thóc năm 1960 ông nhà văn quên bẵng mất là lúc này cách mạng đã
có Ngân hàng Nhà nước làm gì ra tiền Đông Dương như hồi Pháp thuộc? Và rồi ông
xuýt xoa:
“(thóc cao vậy
mà…) vẫn họp hành, vẫn sản
xuất, con gà con vịt, buồng chối lá rau tịnh không một ai lấm lét, tơ hào.
Thời Nghiêu Thuấn cũng đến vậy chứ gì?”.
Ôi trời ôi,
cái thời "mỗi người làm việc
bằng hai, để cho chủ nhiệm mua đài mua xe” mà
ông nhà văn coi là ‘thời Nghiêu Thuấn” thì nghề “bốc thơm”, “bồi bút” phải lấy
ông này…tiên sư...
(còn tiếp)
---------------------------
* nguồn: blog nhattuan
---------------------------
* nguồn: blog nhattuan
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét