Thứ Bảy, 16 tháng 6, 2012

chân dung hay chân tướng nhà văn [kỳ 31-35] - nhật tuấn

KỲ 31





Ngay cả trong gia đình Nhàn, Phó Chủ tịch xã, chỉ có hai mẹ con  mà xem ra trò chuyện hàng ngày giống như “hai phe” đối lập nhau. Hồi cải cách, cha Vinh bị mang ra đấu. Bà mẹ bênh cha: “Đấu cha là đấu Chúa đấy… Mày phải biết đỗ được đến chức cụ là trải qua trăm nghìn khó khăn thử thách đấy. Nếu người không có nhân đức thì ngay khi chịu phép cắt tóc không hộc máu cũng phát ung nhọt, bệnh tật rồi..”.
Cô con gái cãi lại:
“Mẹ còn nhớ nhân dân bên Thạch Bi xứ cũ của ông ấy, cơm nắm cơm gói đến chầu chực ở đây hàng tuần chỉ xin được lột da ông ấy căng mặt trống không? Chính phủ không xử bắn là may chứ còn tiếng tốt gì?”.
Bà mẹ lại kể lể:
Nếu mày không nghe lời tao, tao không dậy được mày thì cả nhà này sẽ mắc vạ tuyệt thông, bị khai trừ ra khỏi hội thánh. Nếu thế thì mẹ chết mất… Con ơi, mẹ run sợ lắm. Mẹ già rồi, ngày linh hồn lìa khỏi phần xác cũng chẳng bao xa… lúc đó hai con khiêng được mẹ ra đồng hay sao, hay là buộc rợ vào chân mẹ cho trâu kéo hở con… con nghĩ lại cho mẹ nhờ…”.
Ngày này qua ngày khác, bất kể ngày hay đêm, cứ hai mẹ con ngồi với nhau là y như rằng nổ ra “xung đột” như thế. Ông nhà văn liệu có nói quá đi không?
Trong gia đình, họ hàng nhà Thụy – đội trưởng du kích, “xung đột” và chia thành hai phe "cách mạng” và “phản cách mạng” còn dữ dội hơn. Chú ruột của Thụy là cha Thuyết, bố đẻ của Thụy là ông trùm Nhạc. Ngày nọ cha cho gọi các cháu trong nhà gồm có Thụy, Toán và Quyên tới để cha cho tiền làm nhà. Trước khi đưa tiền, cha lại nói chuyện “chính trị”:
Nói đến cải cách tao lại nhớ hồi ấy du kích chúng nó làm bùi nhùi cụ Ngô rồi đâm chém hò hét. Thật trò hề. Cụ Ngô là người rất sùng đạo. Cụ là em đức Cha Ngô Đình Thục đấy. Nghe nói sáng nào cụ cũng đánh ô tô đến nhà thờ xem lễ rồi mới về làm việc. Trong Nam người ta yêu quý cụ lắm…”.
Nghe ông chú tuyên truyền “phản động”, dẫu ông là cha đạo đi chăng nữa, Thụy cũng chặn họng ngay:
“Thưa Cha… Cha cho gọi chúng con lên để nói chuyện trong nhà hay chuyện chính trị?”.
Cứ như thế, chú cháu bốp chát nhau, sau cùng cha Thuyết chỉ cho tiền  Toán và Quyên, còn Thụy nhất định không nhận. Bởi thế ông Nhạc, bố của Thụy chì chiết con:
Khí khái rởm. Tiền đưa tận tay mà không thèm cầm. Bốn năm chục vạn chứ có ít đâu, mày thử xem đến bao giờ mới dành dụm được chục vạn mà dựng nhà? Mày cứ bảo Cha không tốt, không tốt thì cũng là Cha linh hồn, cũng là em tao, chú mày. Mày đừng đâm bị thóc chọc bị gạo để anh em tao lủng củng với nhau. Không tin người ruột thịt thì tin ai? Mày không thèm lấy tiền của Cha thì tao sẽ xin Cha, ăn mày Cha chẳng ai cười…”.
Thế là quan hệ cha con của  Thụy – đội trưởng du kích cũng căng thẳng chẳng thua gì quan hệ mẹ con của cô Nhàn – Phó Chủ tịch xã.
Liệu trong những người ruột thịt với nhau chỉ toàn là “xung đột” chính trị không?
Trong một số không nhiều các nhà văn miền Bắc viết về Thiên Chúa giáo như Nguyễn Thế Phương với tiểu thuyết Nắng, Chu Văn với tiểu thuyết  Bão biển… có thể nói Nguyễn Khải là nhà văn bám sát nhất quan điểm Mác Lênin “tôn giáo là thuốc phiện ru ngủ quần chúng”. Chẳng hiểu ông có xác tín điều đó không hay chỉ vờ làm vui lòng đồng chí Tố Hữu; song trên các trang viết của ông nhan nhản những tình tiết, những nhân vật được ông mô tả chỉ nhằm bỡn cợt Chúa.
Đám rước kiệu “tượng Đức Giê-su vác câu rút" trong ngày lễ Phục sinh được mô tả với giọng dè bỉu:
"Thỉnh thoảng xé lên lanh lảnh một vài tiếng kèn đồng te té te té… chói tai, lạc lõng, chìm nghỉm ngay trong cái hỗn độn của tiếng trống, tiếng  trắc gỗ, tiếng đọc kinh ngắm đàng thánh giá, tiếng gọi nhau í ơi…”.
Đám người tổ chức rước toàn là quân phản động. Đánh nhịp cho đội trống là Quảng và Liêu. Quảng là “con trai phó trương xứ, mười bảy tuổi đã sung vào đội quân của Cha Báu, mười tám tuổi chuyển qua đội quân com-măng-đô, ít lâu sau được cử làm người hộ thân cho viên quan năm chỉ huy quân sự miền hạ Nghĩa Hưng”, mới đây lại gỉả chết để vu vạ cho bộ đội giết dân. Còn Liêu bị “tình nghi ở trong đảng phái phản động, truy bức vợ chồng hắn về võ khí trong nhà xứ. Từ ngày ấy hắn quan niệm về phần đời, phần đạo hoàn toàn khác. Thày Thịnh mời hắn ra đứng trong ban thành lập hội trống nhà xứ”. Khi hội trống đã được thành lập với ba mươi cái trống và bốn mươi bạn hữu, Liêu lộ mặt phản động “Lý tưởng của người ta không phải là xã hội chủ nghĩa mà chính là hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng…":
Sau đội trống thì đến nghĩa binh nam và nữ. Nhà văn mượn một con bé con để diễn tả sự thờ ở của con chiên với “nỗi đau của Chúa”.
“còn bé lắm chừng như mới chịu lễ lần đầu, hai đầu mào trắng chấm xuống gần khoeo chân…”. Nó mếu máo đọc kinh:” Kính mừng Ma-ri-a đầy ơn phúc… bà có phúc lạ hơn người nữ… và Giê-su con bà…”, nhưng mắt nó lại nhìn “một con chuồn chuồn mình đỏ đậu rún rẩy trên bụi rơi gai ở vệ sông. Ôi con chuồn chuồn đẹp quá, đậu ngờ nghệch quá…”.
Trong khi đầu óc con bé chẳng nghĩ gì tới Chúa thì ngay bà quản giáo  trong đám rước cũng vậy. “bà không đọc kinh, bà còn mải trông hơn sáu mươi em nữ nghĩa binh, học trò của bà, nếu rời mắt là chúng nó lại xô đẩy nhau, cấu véo nhau…” và bà quản giáo được mô tả đầy ác cảm “trên khuôn mặt bà không có lấy một nét nào hiền dịu, tha thứ, cởi mở của người mẹ; nó ảm đạm như người có nỗi buồn sâu kín; nó khắc khổ vì bà là người tu hành; khi bà đánh trẻ con thì rõ là người khó tính khắc nghiệt…”.
Sau đó các con chiên lần lượt vào nhà thờ nghe đọc đoạn đóng đanh tưởng nhớ đến những sự thương khó Chúa Guê-su đã chịu trên cây thánh giá. Chẳng hiểu sao cha xứ lại… khó kiếm ra được một người đọc đoạn kinh đó.
“Ông Đông phó trương xứ chữ quốc ngữ không biết, chữ nho cũng không nốt nên sự hiểu biết đạo lý kinh sách chẳng hơn gì người bổn đạo. Còn ông trùm Hòa, trùm đạo thôn Hỗ lại càng… dốt hơn” .
 Có thực trong các ông trùm đạo nhiều người mù chữ đến như thế chăng?
Và nỗi đau của một bà già thương xót chúa Giê-su được mô tả “hài hước”:
Bà Nhàn ngồi vào một góc, cái mào đen rủ xuống hai bên má che gần hết khuôn mặt ảm đạm của bà. Bà cố bày ra trong trí khôn như xem thấy chúa Giê-su bị quân dữ đóng đanh trên cây thánh giá thật. Những cái đanh sắt mà đóng xiên qua bàn tay Chúa mình như thế thì đau đớn biết chừng nào, chỉ vì tội mình và tội tổ tông truyền. Ôi, cái mạo gai, có những bảy mươi hai cái gai lọt vào óc Chúa tôi, buốt nhức biết bao nhiêu, máu chảy đầy mặt ròng ròng. Bà cứ tự vật vã với mình, trách móc mình sao đã vội vã quên đi sự thương khó mà Chúa đã phải chịu…”.
Thật đúng “tôn giáo là thuốc phiện". Nó làm một bà già trở thành mê mụ, mù quáng đến dở hơi:
“Chúa lấy hai cây gỗ cứng thay giường nằm, lấy mạo gai nhọn thay gối còn bà thì giường cao, chiếu sạch, chăn đắp, màn che, bà còn phàn nàn gì nữa, kêu xin gì nữa. Bà không bao giờ ao ước được sướng hơn mà chỉ muốn mình sẽ khổ đi, chịu đựng thêm vì con đường lên thiên đàng là con đường hẹp…”.
Lực lượng “nhà thờ” đông đảo vậy nhưng chẳng là gì với chính quyền cách mạng tiêu biểu nhất là Môn – Chủ tịch xã. 
"Một trong những địch thủ nguy hiểm nhất của nhà xứ là Môn, xã đội trưởng ngày trước và nay là chủ tịch xã…”.
Trong cải cách, do “âm mưu của nhà thờ”, Môn đang là xã đội trưởng bị kích lên “thành phần phản động” suýt nữa bị bắn như Rỹ. Lúc sửa sai, Môn được phục chức và trở thành một đảng viên trung kiên, lập trường còn vững hơn cả cấp trên. Môn thường xuyên theo dõi các hoạt động trong nhà thơ và bắt ne bắt nẹt.
Một hôm trên tòa giảng, cha Vinh cao hứng nên có giảng chệch ra ngoài kinh sách E-van đôi chút: "Vinh đây dẫu đầu rơi máu chảy cũng không chịu lui đâu. Nó có vả ta má bên hữu ta còn giơ má bên tả cho nó vả nữa kia. Ai chịu bắt bớ vì sự công chính thì có phúc thật vì nước trên lời là của kẻ ấy…”.
Lập tức có kẻ mật báo, ngay sau buổi giảng, “Môn nhân danh chính quyền mời cha Vinh đến trụ sở nói chuyện”. Khi cha tới, “cha đưa tay ra nhưng không ai bắt nên lại rụt tay về”, Môn trấn áp ngay:
Linh mục làm phản động, chính phủ bắt giữ để tự hối cải lại còn nói không lùi bước. Ý chừng linh mục muốn chống đối với chúng tôi mãi chăng? Muốn làm phản động lần nữa hay sao? Nếu vậy chúng tôi sẽ có cách…”.
Tất nhiên cha sợ vãi mồ hôi, lần sau cạch đến già có giảng kinh thì cũng phải “uốn lưỡi bảy lần".  Khi “duyệt” cho nhà xứ thành lập đội kèn, ông Chủ tịch Môn còn đặt điều kiện:
Người trong hội kèn chỉ biết có thổi kèn thôi, ngoài ra không được làm những việc gì khác, nói rõ ra là không được làm chính trị. Nếu có thế nào thì ban chánh trương phải chịu trách nhiệm. Còn nếu bằng lòng đặt dưới sự lãnh đạo của Ủy ban thì cụ thể phải nằm trong khối văn xã…”.
Ban chánh trương cùng các trùm họ mở tiệc mổ trâu để bầu Quý là địa chủ vào Ban chánh trương xứ. Tất nhiên Môn được mật báo và tuy không được mời cũng lừng lững đi vào bữa tiệc như chỗ không người rồi lên giọng chủ tịch xã:
"Muốn đạo gì thì đạo, đã là công dân thì phải theo đúng pháp luật của Nhà nước. Nếu ai làm trái thì dù bố mẹ đẻ ra cũng không bênh được…”.
Rồi ông Chủ tịch xã can thiệp vào việc bầu bán của nhà thờ:
"Tôi lấy một ví dụ: đã là địa chủ thì nhất thiết phải tước hết quyền công dân, không được tham gia bất cứ một tổ chức nào cả. Thấy ban chánh trương cũ bất lực cần bầu lại thì cứ bầu, giáo dân chúng tôi hoan nghênh mà ủy ban cũng hoan nghênh, nhưng bầu địa chủ là sai, địa chủ lãnh đạo nông dân là chuyện ngược đời, là trái chính sách, trái cả lẽ đạo…”.
Và chỉ vài ngày sau khi chánh trương xứ Quý đi Hà Nội về, “Môn cho hai du kích đến áp giải Quý lại trụ sở bắt ngồi xuống đất. Môn hỏi:
“Quý! Mày hãy nhắc lại tám điều quy định cho địa chủ sau cải cách ruộng đất để ủy ban nghe!”.
Lâu lắm ông chánh trương xứ mới lại bị nghe một người khác nói đến tên mình một cách láo xược vậy. Nhưng người đó lại là… đại diện chính quyền. Bởi vậy “Môn bảo sao hắn cũng vâng dạ ngoan ngoãn lắm như người bị mê muội từ lâu nay mới có dịp thức tỉnh. Môn kết luận: 
“Mày đi Hà Nội không xin phép ai, đáng lý phải trị thẳng tay làm gương cho đứa khác nhưng Ủy ban tha thứ lần đầu. Còn mày làm những gì thì trong này đã có hồ sơ cả. Đời mày do mày định đoạt lấy. Muốn ăn cơm nóng, ở nhà với mẹ với vợ cũng được mà muốn ăn cơm mắm, ngồi xà lim cũng được…”.
Ngày nay đọc lại đoạn văn này vẫn thấy “sởn gai ốc”.

     

KỲ 32







Chủ tịch xã Môn là người “đạo gốc”, một “con chiên” của Chúa, nhưng nay đã trở thành “con sói” giữa bày cừu, “một trong những địch thủ nguy hiểm nhất của nhà  xứ", “không thích làm những việc vụn vặt, tầm thường, bao giờ cũng đảm đương những nhiệm vụ khó nhất, phức tạp nhất người khác không làm nổi", là một người “ốm cũng không dám nằm thật, bị cảm đã mấy hôm vẫn ra trụ sở, hay “ngồi nhà nhưng vẫn giải quyết công việc… vui lòng hy sinh đời mình cho công tác.” .
Người thay mặt chính quyền “mác-xít hơn cả những người cộng sản” vậy tất nhiên cán cân phải lệch về phía cách mạng trong cuộc đấu tranh “quyết liệt” “ai thắng ai”.
Thực ra “ai thắng” quá rõ rồi, và đó không phải "đấu tranh một mất một còn” giữa hai bên, mà chính là cuộc trấn áp tất cả những gì gây nguy hại tới quyền lực của Đảng. Bởi thế người ta thấy mối quan tâm của ông Chủ tịch xã Môn chẳng nhằm phát triển sản xuất nâng cao mức sống cho dân mà chỉ nhăm nhăm để ý coi nhà thờ có biểu hiện gì xâm phạm tới “đường lối của Đảng và Chính phủ”.
Từ việc nhỏ như xứ đạo mổ trâu ăn mừng Ban chánh trương mới ra mắt phải xin phép tới thành lập hội kèn phục vụ lễ rước cũng thành chuyện “trong đại” phải xem xét bên trong có âm mưu chống phá gì không? Khi “duyệt” cho nhà xứ thành lập đội kèn, ông Chủ tịch Môn còn đặt điều kiện:
“Người trong hội kèn chỉ biết có thổi kèn thôi, ngoài ra không được làm những việc gì khác, nói rõ ra là không được làm chính trị. Nếu có thế nào thì ban chánh trương phải chịu trách nhiệm. Còn nếu bằng lòng đặt dưới sự lãnh đạo của Ủy ban thì cụ thể phải nằm trong khối văn xã…”.
Ôi thôi, thế thì Đảng cho người thay Cha “quản lý” việc đạo cho rồi.
Cán bộ Đảng được Nguyễn Khải ca ngợi một tấc lên trời, ngược lại, các Cha đạo không “hám gái” cũng “hám tiền”.
Ở xứ đạo có một bà góa mới ngoài 40, “nhưng còn tươi tắn khỏe mạnh lắm, khi ông bõ ở nhà xứ chết thì ban chánh trương cắt cử bà vào thay”.
  Bà góa này “ngày hai bữa cơm dâng Cha và các chú ăn, giặt giũ quần áo, chăn lợn, làm vườn, dần dần cai quản cả thóc lúa và việc chi tiêu trong nhà xứ. Đêm bà cũng không về nhà cứ ngủ trong cái buồng kho”.
Có người đàn bà phây phây bên cạnh, làm sao Cha không động lòng trần tục. “Khi thì bà lên buồng Cha Vinh bưng cơm rót nước, khi Cha Vinh xuống buồng bà hỏi han công việc. Có một buổi trưa Cha đang ngủ bà sai cháu lên buồng cha gọi: "Cha ơi Cha, bà con bảo Cha cởi áo cho bà con vá…”.
Ngoài chuyện “gái gủng” ra, các Cha còn tìm mọi cách moi tiền của giáo dân... Ông Bính, một con chiên ngoan đạo nhận xét:
“Các Cha xứ từ trước đã ăn mười phần thì nay nên thương con chiên mà ăn năm thôi. Các Cha tải của về quê có nhiều chứ ăn là mấy. Làm thầy nuôi vợ, làm thợ nuôi miệng, các Cha không có vợ thì cho bố mẹ, anh em, bà con…”.
Còn Cha Thuyết thì thu tiền của giáo dân theo giá “cắt” cổ:
Ông kể lại một hôm ngồi hầu cơm Cha Thuyết, được nửa bữa có người đến hỏi:
“Lễ sáng nay làm cho linh hồn vừa mới qua đời hết bao nhiêu?”.
Cha vừa ăn vừa trả lời:
“Hai vạn”.
Người kia móc tiền để vào đĩa, bốn tờ giấy năm nghìn còn mới. Bữa cơm chưa xong đã có tốp đến mười bà dòng vào cũng để tiền vào đĩa dâng lên. Cha ngưng đũa hỏi:
“Tiền gì?”.
“Trình Cha tiền tứ kỳ”*.
“Mấy vạn?”.
“Trình cha ba vạn mốt…”.
Cha lại cuộn tiền cho vào túi. Cha ăn chưa hết bát cơm mà được món bổng những hơn năm vạn, mình vai vác cầy, tay dong trâu, làm hang đá, dựng đèn đại khó nhọc hàng tháng chẳng được xu nào…”.
Các Cha đạo có “ăn tiền” như cán bộ ngày nay ăn phong bì không? Hay ông nhà văn “bôi bác”, “vơ đũa cả nắm?".
Hình như đã “ấn định” viết tiểu thuyết với chủ đề "xung đột” nên chẳng riêng gì các cán bộ cốt cán như Môn, Nhàn, Thụy… mà ngay chính nhà văn Nguyễn Khải nhìn đâu cũng thấy “xung đột”, nhìn cái gì cũng thấy “địch phá hoại”.
Năm ấy thôn Hỗ được mùa, “no ăn cho nên thanh niên đua nhau chơi diều sáo…. Thanh niên chơi, cán bộ chơi, cả cụ già cũng thả diều… Ông trùm Hòa nói chuyện với Môn, với Nhàn, với các cán bộ của xã: "Đấy, nhờ sự lãnh đạo của Ủy ban, năm nay thôn nhà vui vẻ quá, đàn sáo suốt đêm…”.
Chơi diều ở nông thôn là chuyện bình thường, nhưng tác giả cũng cố gài cho nó một ẩn ý “chính trị”:
“Thôn xóm đương sầm uất vì việc đạo, vui vẻ phần đời thì vợ Liêu ngồi bán hàng ở chợ Hỗ rỗi mồm kháo chuyện: "bây giờ ở dưới đất các ông cán bộ tranh hết phần nói nên dân lại phải làm mồm ở trên giời…”.
Thế là lập tức nhiều người phụ họa:
”Đấy, nghe kỹ mà xem, cái sáo nó cứ kêu: Cha ơi… Cha ơi… Cha ơi….”.
Thế rồi một số người xì xào to nhỏ với nhau:
“Bây giờ hoạ cộng sản dâng lên như nước thủy triều, không thể đối địch với chúng được, càng cựa càng bị giây pháp luật thít chặt đành phải nhờ tiếng sáo nó kêu khắp bốn phương may ra có thấu đến Chúa, đến đức Mẹ, đến các Cha ở miền Nam không?”.
Vậy là giống đội cải cách “phóng tay phát động quần chúng” nhìn đâu cũng ra địa chủ, qua tiếng sáo diều ông nhà văn cũng nghe thấy tiếng nói của  bọn “phản động”.
 Sau vụ “sáo diều” đến vụ làm “nhà nguyện”.
Cũng nhân dịp năm nay làm ăn xởi lởi nên một vài xóm rục rịch dựng nhà nguyện để sớm tối giáo hữu đến đọc kinh, đỡ phải lên mãi nhà thờ xứ…”.
 Thông thường, chuyện dựng nhà nguyện có gì ghê gớm, nhưng ông nhà văn cũng lồng vào đó “âm mưu phá hoại  của nhà thờ”. 
Thế là nhân dịp Chú tịch xã Môn đi vắng nửa tháng, ông trùm Hòa xin phép bà Phó Chủ tịch Nhàn dựng nhà nguyện. Bà này lý luận:
“Đứng về phía chính quyền mà xét thì việc dựng thêm nhà thờ họ lẻ rất phù hợp với chính sách bảo vệ tín ngưỡng của chính phủ, đứng về mặt đạo thì lại càng nên khuyến khích hơn, nước Chúa có được mở rộng thì mới có thêm nhiều linh hồn được cứu chuộc…”.
Thế là bà Phó Chủ tịch Ủy ban cho phép luôn.
“Ủy ban đồng ý buổi sáng thì buổi chiều họ xóm trại khởi công xây dựng nhà thờ ngay… Văn phòng của ông chánh đốc công xây nhà thờ họ chật ních người đến làm việc phúc đức. Giá thóc chợ Hồ xuống hẳn vì xóm trại đem thóc đi bán nhiều quá…”.
Như vậy nhà thờ phải làm vội làm vàng để qua mặt ông Chủ tịch xã.  Nhưng rủi cho mấy ông, khi nhà nguyện cất xong, sửa soạn làm lễ khánh thành thì ông Chủ tịch xã đi công tác về.
Ngôi nhà nguyện đã xây xong, ông Chủ tịch xã không ngăn cản được nữa, trong cuộc họp Ủy ban, ông thẳng thừng phê bình bà Phó Chủ tịch Nhàn “hữu khuynh” cho phép dân xây nhà nguyện:
“Tôi thử hỏi các đồng chí chỉ riêng có một xóm trại xin làm nhà thờ hay là cả miền này, cả tỉnh này đang rục rịch yêu cầu thế? Có phải chỉ sau khi ông Lân nhân danh đức Cha đi kinh lý các xứ mới sinh ra cái chuyện này không? Tại sao các xóm phàn nàn là hồi này gọi đi họp rất khó. Bây giờ chưa khó lắm đâu, nay mai mà để mỗi xóm lẻ mọc lên một cái nhà thờ hoặc một cái nhà nguyện thì tối đến chỉ đánh chuông đến boong một tiếng là cán bộ ngồi trơ một mình khai hội với bức vách. Đồng chí Nhàn bảo tôi tả, nhưng tôi lại nhận xét đồng chí giải quyết các việc thuộc về tôn giáo rất khờ dại. Cứ giải quyết theo hướng đó thì có ngày ủy ban đem vợ con lên núi ở…”.
Và ông gây sự bằng cách không cho tổ chức ăn mừng khánh thành và bắt mấy ông trùm đạo mang hết sổ sách lên để ông… kiểm tra và chỉ đạo:
“...  vôi nhà xứ đã có sẵn mười tạ, nay mua thêm hai mươi tạ nữa là vừa đủ, xây hai cổng, xây tường hoa, quét vôi trong nhà thờ. Nhà thương phía sau nhà cô mụ quá dột nát thì sẽ vận động các xóm góp rạ, góp tre lợp độ dăm buổi. Ghế gãy đóng lại, nếu còn thiếu thì đóng thêm. Không nên mua chiếu ngoài rất tốn, chỉ cần mua ít đay, ít cói rồi triệu tập thanh nữ, bà già lại đánh đay, đem bàn dệt vào dệt…”.
Vậy là ông Chủ tịch xã muốn làm cha thiên hạ, cai quản luôn cả việc đời lẫn “sự đạo”. Ông “thò tay chỉ việc” cho nhà thờ sát sạt vậy chứng tỏ Đảng “quan tâm” “ưu ái” tôn giáo lắm, thể hiện “chính sách tự do tín ngưỡng” sáng ngời còn kêu ca nỗi gì?
Cũng may, hồi đó nếu tiểu thuyết “Xung đột” của nhà văn Nguyễn Khải mà lọt vào tay một chuyên viên phân tích của Tòa Thánh thì còn gì là những “lời hay ý đẹp” về tự do tín ngưỡng của Đảng và Nhà nước ta?

* tiền dùng để cầu nguyện cho linh hồn người đã qua đời
          
                            
KỲ 33


       
       

Chị Phó Chủ tịch Nhàn cho dân "xây nhà nguyện”, “ăn mừng khai trương”, cứ ngỡ đứng về phía giáo dân, ngờ đâu khi nghe ông trùm phát biểu “ý kiến” theo kiểu “tư cách công dân" trong một đất nước có luật pháp:
Nói thẳng ra, cứ thế này mãi thì khó ai tin được lời chị nói, khó ai tin được cái ủy ban này nữa. Dân bầu lên thì dân cũng có quyền truất đi. Không dễ mỗi lúc bỏ tù nhau…”.
Chị ta cũng nhảy nhổm lên vì quyền lực bị động chạm:
“Bây giờ ông định bàn với tôi về làm nhà thờ họ hay muốn phê bình ủy ban?”.
Ông trùm họ tưởng mình còn có cái gọi là “quyền công dân” vẫn gan lì:
Chúng tôi là dân, chúng tôi không biết đâu đến sự làm việc của ủy ban mà phê bình, ủy ban làm đúng hay sai thì tự xét lấy…”.
Lập tức chị Phó Chủ tịch trở mặt, nổi xung:
“Từ nay nếu ông bàn với tôi về việc làm nhà thờ họ thì tôi vẫn hết sức nghe ông, nhưng ông lại nói lếu láo, bậy bạ về ủy ban, gây dư luận không tốt trong nhân dân thì ủy ban sẽ chiếu theo pháp luật mà giữ ông lại. Ngày xưa cũng thế, bây giờ cũng vẫn thế, đã làm bậy thì dù là Cha cụ, là chánh trương, trùm trưởng hay con chiên thường cũng đều phải chịu xét xử như nhau, chẳng nể mặt một ai. Tòa Giám mục cũng không can thiệp được vào công việc của chúng tôi, tòa thánh La Mã cũng không dúng vào được công việc của Ủy ban. Ông đừng có dọa, tôi phụ trách về tư pháp tôi biết hơn rõ ông...”.
Ghê gớm chưa, “thằng dân” vừa mới mở miệng “phê bình chính quyền” bà Phó Chủ tịch xã đã tới tấp ra đòn đánh dập đầu, đánh “tiêu diệt”, mang cả Tòa Thánh La Mã ra đe nẹt khiến cho "mặt ông trùm đờ ra, môi nhợt trắng như người phạm lỗi bị bắt quả tang…”.
Rồi tỏ vẻ “do dân, vì dân” bà Phó Chủ tịch thổn thức:
“Tôi theo Chúa, tôi theo Chính phủ, tôi theo cả hai mà không được sao? Ôi, lạy Chúa. Con cho họ miếng bánh nhưng họ đã ném đá trả lại, con đến với họ với tấm lòng nhân từ của mẹ, nhưng họ lại đối đãi với con như kẻ thù…”.
Kìm kẹp, thắt buộc người dân thế mà dám bảo “cho họ miếng bánh” với cả “đến với họ với tấm lòng nhân từ của mẹ”, còn thằng dân mới chỉ “em xin phê bình cán bộ” vậy mà đã la làng lên “họ ném đá trả lại”, Giê-su-ma lạy Chúa tôi, trên đời còn có ai xảo ngôn đến thế chăng?
Nếu như “Xung đột” phần 1 (viết năm 1956) khép lại những “xung đột” giữa chính quyền và giáo hội thì “Xung đột” phần 2 (viết năm 1961) mở ra những “xung đột” giữa con người với “lợi ích vật chất”.
Trước hết là Cha Thuyết, Cha linh hồn của cả giáo phận, được Nhà nước “quan tâm” cho đi mổ lấy sỏi mật, bỗng dưng biến thành một người ca ngợi “miếng ăn, miếng uống” sặc mùi “ơn Đảng, ơn cụ Hồ”.
Ta hãy nghe đấng chăn chiên “hồ hởi phấn khởi” bốc thơm bệnh viện Nhà nước:
“Ôi chao, quý hóa quá sức mình, cao trọng quá đỗi. Cái nhà thương rộng dễ đến một xóm của ta, cao ngân ngất như đền thánh đức Mẹ ở Phú Nhai vậy…”.
Rồi Cha khoe được “ưu tiên” hơn cả cán bộ xã:
Này, thằng Thụy, con Nhàn có ốm cũng chưa dễ đã được vào chỗ tôi nằm đâu. Lúc đầu tao cũng chẳng tin gì vào cái khoa mổ xẻ, còn chần chừ lắm. Nhưng chính phủ đã bỏ công, bỏ tiền xây dựng một tòa nhà to như vậy, nuôi hàng trăm ông bác sĩ thì tao chắc họ làm phải giỏi…”.
Mổ bụng vậy mà Cha… không được đánh thuốc mê hay sao mà Cha một tấc đến trời:
Lưỡi dao họ lách vào đến đâu tai tao nghe rõ đến đó, nhưng chẳng đau đớn gì sốt. Để tôi lấy bà lão xem cái vật quý này – Cha chạy vào mở tráp cầm ra một cái gạc bông. Bà đã thấy chưa, lúc họ mới đưa tôi để làm kỷ niệm nó to bằng ngón tay cái sờ rắn như đá sỏi. Nó nằm trong bầu mật dễ đã hàng chục năm nay, cái cơn đau vừa rồi mà ở nhà quê chắc là chết….”.
Rồi Cha bầy tỏ tình cảm của mình với cái nhà thương mà Nhà nước đã  cho Cha nằm:
“Một tháng ở đấy thanh nhàn vui sướng chẳng nói được, toại lòng phỉ chí đến không muốn ra về nữa…”.
Đến cái cách Cha ca ngợi “miếng ăn hàng ngày” mới thật thảm hại:
Cha cười  ầm ầm:
“Min ăn suốt ngày, thật như con trẻ, bốn bữa, năm bữa, mỗi bữa ăn một vực cơm đầy. Bây giờ thì min có thể sống thêm được vài chục năm nữa…” .
Được chút “bổng  lộc” Nhà nước, Cha trở giọng chửi bới Cha Lân Tòa Giám mục vốn là người đang bị chính quyền nghi ngờ kích động giáo dân:
Tao cứ trông thấy thằng Lân ở đâu là chỉ muốn lánh mặt. Nó chỉ đem phiền muộn đến cho mình. Muốn an nhàn một chút cũng chẳng được. Cái thứ ấy chẳng liên quan gì tới tao, tao là đấng chăn chiên thì chỉ biết vâng theo lệnh bề trên thôi…”.
Ngay với đức bề trên trực tiếp là Cha Tuệ, giám quản địa phận Bái, Cha cũng giở giọng bóng gió với ông Thường trực Ủy ban xã:
Tao thấy ở đời này lắm người có đạo mà lại hay bỏ vạ cáo gian, đức hạnh nết na chả có, lòng đầy rẫy những sự ghen tuông, hờn giận, oán thù. Mặc áo thầy tu mà trong lòng thì dữ tợn quá con quỷ…”.
Sau khi đặt vào miệng Cha những lời bôi xấu Cha bề trên, ông nhà văn lại biến Cha thành kẻ “chỉ điểm”:
 “Ông Tuệ có ý mời các Cha trong địa phận về Bái họp, áng chừng muốn dùng số đông khiếu nại lên chính phủ…”.
Và Cha bầy tỏ lòng quy thuận:
Nhưng bây giờ thì tao mặc, tao cũng có nói với lão Lân rằng: ở Tòa Giám đã có đức giám quản sáng suốt khôn cùng, đã có Cha chánh xứ, Cha cố vấn, hội đồng tư vấn gồm toàn những con người khôn ngoan rất mực thì còn cần gì đến những thằng già lẩm cẩm chỉ biết giảng kinh, giải tội cho con chiên, chỉ biết chú mục làm việc Chúa cho danh Cha cả sáng…”.
Rồi Cha nộp cho nhà cầm quyền thư của Cha Giám quản gửi cho Cha:
Trong cuộc giao tranh thiêng liêng để chiếm nước thiên đàng, đạo binh hùng dũng nhất là đạo binh cầm tràng hạt Mân Côi chứ không phải là khí giới cầm tay…”.
Than ôi, chẳng lẽ mới chỉ được bố thí chút lộc chữa bệnh mà Cha đã bán linh hồn ca ngợi kẻ cầm quyền và tố cáo người trong giáo hội sao?
Quả thực, vạch trần “chân tướng” linh mục, giải “cây bút vàng” phải giành cho Nguyễn Khải trong  Xung đột 2. 
Thế rồi Cha mồi chài, làm sa đọa đến cả “đồng chí” Thụy, thường trực Ủy ban:
“Rồi Cha móc túi lấy ra một cuộn bạc chẳng cần đếm là bao nhiêu đưa cho Thụy. Từ đấy Thụy là người cai quản hết thảy mọi việc… qua mỗi việc Thụy lại lên trình bẩm với Cha và lần nào về cũng đưa cho vợ hàng gói bạc…”.
Đáng lý chỉ cần một trăm thì cha lại vứt ra một trăm rưởi. Cái con số lẻ ấy mới đầu như chênh vênh nhưng dần dần nó đã tìm được chỗ đứng vững chắc…”.
Thế là từ đó mâm cơm nhà Thụy không chỉ là “rau muống luộc chấm nước cáy” nữa, “vợ Thụy đã phải lăn xuống bếp: hôm giết con gà, hôm đánh bát tiết canh vịt, rồi nào lòng xào, lòng nấu miến, khúc cá rán, khúc nẩu riêu, rau muống cũng phải xào đẫm mỡ…”.
Đồng chí thường trực ủy ban thay đổi hẳn, “toàn một giọng hỉ hả, đài các, toàn những chuyện may sắm, lựa chọn cái này cái nọ, tính toán giá gỗ đóng giường, giá vải hoa làm màn che, cái phích đựng nước nóng, bộ ấm pha trà…”.
Ôi lạy Chúa, cán bộ hư hỏng? Đó là lỗi tự nhà thờ.
                      
                       
KỲ 34


                          
                                      

Hóa ra từ thời đó đã hiển hiện loại người mới xuất hiện sau cách mạng:“cán bộ”. Tham lam vật chất, khăng khăng giữ ghế, sẵn sàng hạ độc thủ  bất kỳ ai động chạm tới ghế của mình. Hình ảnh ông Thường trực ủy ban xã đúng là chân dung tiền bối của quan chức các cấp thời bây giờ. Có điều, ông nhà văn chỉ dám dựng nhân vật đó như trường hợp cá biệt, “con sâu làm rầu nồi canh”, còn tuyệt đại đa số cán bộ ta vẫn chí công vô tư, hết lòng vì nước vì dân. Và tin tưởng sắt đá loại “cán bộ tiêu cực” như Thụy nhất định sẽ bị đào thải:
Hơn nửa năm nay… Thụy không còn được đảng viên trong chi bộ tín nhiệm nữa. Kỳ bầu ban chi ủy vừa qua, Thụy chỉ được vỏn vẹn có hai phiếu, một lá của Môn và một nữa chắc do Thụy viết…”.
Nhà văn tuyệt nhiên không dám thừa nhận loại cán bộ như Thụy mới chính là “nhân vật thời đại”. Nó như ký sinh trùng ngày càng sinh sôi nảy nở, hằng hà sa số, sống bám trên cơ thể dân tộc, đục khoét, ăn cắp từ tiền bạc, địa vị xã hội tới tài nguyên, môi trường, phá hoại những di sản quá khứ và làm băng hoại những giá trị tinh thần và đạo đức xã hội.
Sau khi cải cách ruộng đất phá tan đạo lý cổ truyền làng quê Việt Nam, vài năm sau Đảng lại rầm rộ phát động hợp tác hóa nông nghiệp chỉ hơn 20 năm sau đã phá hủy gần hết năng lực canh tác trên ruộng đồng.
Tuy nhiên mãi tới năm 1986, tính chất phá hoại đã rõ rành rành, cái chết nó gây ra đã tới sau lưng, Đảng mới ngấm ngầm xóa bỏ nó bằng việc trả lại ruộng đất cho dân và giải tán các hợp tác xã nông nghiệp.
Sự sụp đổ của công cuộc hợp tác hóa nông nghiệp kéo theo cái chết hàng loạt tác phẩm lừng lẫy một thời: Cái sân gạch, Vụ lúa chiêm của Đào Vũ, Đất làng của Nguyễn thị Ngọc Tú và cả Xung đột (tập 2) của Nguyễn Khải… Bao nhiêu thành tích, bao nhiêu tính ưu việt, bao nhiêu đổi thay tích cực của bộ mặt nông thôn, bao nhiêu đổi đời sung sướng của người nông dân được các nhà văn tô vẽ, tâng bốc lên mây xanh bỗng chốc tan tành sương khói bới cái nghị quyết “khoán sản phẩm” của Đảng - thực chất là sự cáo chung cho “lề lối làm ăn tập thể”, cho “hợp tác xã nông nghiệp” mà suốt mấy chục năm các nhà văn của Đảng ra sức tô vẽ. 
Trong Xung đột – phần II, “vào ngày lễ mở đầu tháng đức Mẹ cũng là ngày thứ ba của cuộc “vận động hợp tác hóa” sôi nổi, rầm rộ suốt tám xóm trong xã. Mỗi xóm thành lập một ban vận động gồm những người trong ban quản trị hợp tác xã cũ, đội trưởng đội sản xuất và một vài người mới nữa. Tiếng trống, tiếng loa nổi lên từ lúc chuông nhất và chỉ tắt đi vào khoảng gần nửa đêm…”.
Chống đối lại cuộc vận động đó, theo ông nhà văn, tất nhiên chỉ có… nhà thờ:
Tiếng loa của đức chúa Trời và lời giảng hùng hồn của cha Lân “đối lập với “tiếng trống của người thế gian và lời lẽ vận động đầy sức thuyết phục của cán bộ xã" làm cho “cuộc sống ở thôn Hỗ cứ náo động suốt đêm ngày. Không có tiếng súng nổ nhưng tâm trạng con người thì giống hệt như trong một trận chiến đấu. Cũng có những người kiên quyết và những kẻ dao động, tin tưởng và bi quan, phẫn nộ và bình tĩnh…”.
Đó là cuộc chiến tranh được ông nhà văn “tô vẽ” giữa “nhà thờ” và chính quyền cộng sản đại diện là mấy ông cán bộ xã. “Tiếng loa của đức chúa Trời “chẳng thấy đâu nhưng lời giảng được cho là của Cha:
Hiện nay ma quỷ đang dùng thóc gạo làm chước độc để mê hoặc linh hồn các con. Song các con hãy nhớ lời Chúa đã từng phán tỏ tường rằng: bay lo ngày mai mà làm chi, đến ngày mai sẽ hay, bởi chưng sự khốn khó ngày nào đã đủ cho ngày ấy…”.
Không những chẳng lọt được vào tai giáo dân:
không nói đâu xa xem như vợ chống thằng Quảng kìa, chồng vay hợp tác  được mấy chục cân thóc gánh về, vợ đã mặc áo ra nhà thờ thấy thóc cởi cả áo ra, chồng xay vợ sàng hì hụi từ chập tối đến nửa đêm, vừa làm vừa đùa bỡn nhau dễ còn vui hơn cả lễ Phục Sinh…”.
mà còn bị bôi bác:
“Ấy vậy mà Cha mới nói là ma quỷ dùng thóc gạo cám dỗ nên người thế gian mới bỏ cả đức tin, bỏ cả Chúa…”.
Vậy là “cha” thua một cách dễ dàng, nông dân ào ào nộp đơn vào hợp tác xã. Ông nhà văn diễn tả một ông bố sai con viết đơn với nhiệt tình và lòng thành kính  như viết đơn cho Chúa Giê Su xin lên… thiên đàng:
“Vui, này lấy giấy bút ra đây tao muốn nhờ mày một việc…”.
Cô con gái lấy tờ giấy mực lem luốc, lập tức bị ông bố mắng:
Mày coi khinh bố mày thế hả con, không nỡ cho bố một tờ giấy đẹp đẽ ư? Đã dùng vào việc cao trọng thì chớ lấy những thứ dơ dáy...”.
Rồi ông quay sang vợ:
“Cả đời chỉ có một lần. Bà hiểu cái việc tôi nói là việc gì rồi chứ?”.
và lệnh cho con:
“Lấy vạt áo lau sạch cái ngòi bút đi thì nét nó mới thanh được. Bắt đầu như thế nào nhỉ? Việt Nam Dân chủ Cộng hòa… năm thứ mười lắm…”.
Trong thực tế, lùa được nông dân vào hợp tác xã là một việc phải thúc ép, cưỡng chế vậy mà ông nhà văn “tâng” lên thành một thứ ý nguyện thiết tha của dân làng. Ông còn “mượn mồm” một bà nhà quê để ca ngợi cái ưu việt của lề lối “làm ăn tập thể”:
“Như nhà tôi chỉ riêng khoán cày khoán bừa hai mẫu cũng mất đứt hai chục thóc rồi. Cái trò đem trâu cày ruộng nhà người đến mùa lấy thóc thì làm kỹ sao được… Còn vụ vừa rồi ai cày ai bừa mặc ai, chị em chúng tôi cứ ra công cấy, làm chung ăn chung, anh làm dối thì cái cót thóc của anh cũng ít…”.
Ca ngợi “làm chung ăn chung” như vậy, ông nhà văn đâu có biết cái kiểu “tập thể hóa" đó khác gì “cha chung không ai khóc” khiến đồng ruộng bỏ hoang, mùa màng thất bát khiến Đảng lại phải giải tán “làm chung” trả ruộng đất về cho ai nấy làm. Ngày đó chắc ông Nguyễn Khải chưa nhận ra hoặc nhận ra mà vẫn giả ngu, vẫn nhiệt tình ca ngợi cái lợi của hợp tác xã qua mắt bà nông dân:
Tôi chẳng gì cũng nhiều tuổi hơn các chị, cái khổ cái sướng đã trải qua, trước khi vào hợp tác xã tôi cũng tính toán chán, nếu không có lợi thì tôi vào đầu làm gì… Lạy Chúa, từ ngày biết làm người tới giờ, chỉ có mỗi vụ chiêm vừa rồi vào hợp tác tôi mới nhàn nhàn cái thân chút ít…”.
Tất nhiên vào hợp tác xã không chỉ đánh trống ghi tên, khối người lừng khừng, đắn  đo để rồi:
Không vào cũng chẳng được, họ vác trống vác loa đến tận đầu nhà kể lể, than vãn nghe nẫu cả ruột chứ dễ được yên ư? Hết tốp cán bộ này ra, lại đến tốp khác nối chân vào. Ngồi tiếp chuyện các ông ấy thì mất ngày mất buổi, lánh mặt lại sợ họ bảo mình có ý tứ gì…”.
Vậy là cả làng cả tổng đều ‘tiến bộ”, đều thành xã viên hợp tác xã chỉ trừ ra có mỗi… ông linh mục,  khiến bà con phàn nàn:
Ông Tam ạ, tôi xem ra các Cha mà tiến bộ được như mình thật là khó. Mình theo chế độ mới nào có mất gì, chỉ được thôi, còn các ông ấy mà theo ta thì túi tiền vơi đi quá nửa…”.
Thế rồi ông nhà văn lấy "dạ tiểu nhân đo lòng quân tử”, lấy cái “tâm lúc nào cũng lo ăn” để phân tích các Cha tinh thần:
Tôi tính cho các ông các bà nghe nhá. Trước kia ở tổng này có ba chục thằng địa chủ, đứa nào hàng năm chẳng có mấy ngày giỗ kỵ cha mẹ, tổ tiên, lại sửa một mâm chén, tiền lễ đưa Cha để Cha cầu nguyện cho. Vậy là một món. Nhà nào có cha già mẹ héo cũng phải cố thu xếp mời bằng được Cha đến làm phúc, cơm ăn rồi còn tiền đưa tận tay cho Cha cầm về. Một năm một lần làm lễ kỳ hồn cho cả xứ, gia đình nào cũng phải đưa tiền, neo túng thì hai ba đồng, sang trọng thì từ một trăm trở lên. Ba món nhé!... Chả trách người ta đồn vàng ở Tòa thánh còn nhiều hơn cả thế gian gộp lại…”.
Nhìn nhận về Thiên chúa giáo như vậy, quả thực ông nhà văn Nguyễn Khải xứng đáng là người…"duy vật”. Chỉ có điều tới ngày nay nếu có dịp đọc lại tác phẩm của mình, hẳn ông nhà văn phải cay đắng thừa nhận rằng cái “hợp tác xã nông nghiệp” mà ông hết lòng ca ngợi đã sụp đổ từ tám đời, nay chỉ còn là cái “bia miệng” cho thiên hạ chê cười, còn cái nhà thờ  mà ông ra sức bôi bác vẫn cứ lừng lững mà xem ra mỗi ngày cái “sự đạo” lại thêm tưng bừng náo nhiệt.
                                            
Tuy thế đọc kỹ Xung đột cũng có thể lọc ra ít nhiều dấu ấn của cái thời đại “hợp tác hóa nông nghiệp” kinh hoàng đó.
Vợ chồng nhà Lận trong làng có con trâu sẽ phải đưa vào hợp tác xã nhưng được hóa giá quá rẻ nên tự mổ thịt bán cho bà con trong xóm. Đó là tội ác tày đình, chỉ tiến hành lén lút ngoài bờ đê trong lúc Chủ tịch xã đi vắng. Trong số những người chạy ra đám mổ trâu mua về xâu thịt có ông Phó Chủ nhiệm Tam mà vì “đến mấy tháng nay mâm cơm không có được miếng thịt" nên “đụng vài cân cho trẻ nó xởi lởi”.
Thịt trâu ăn vào bụng cả nhà rồi chẳng ngờ ông Môn, Chủ tịch xã đi họp về biết chuyện, mắng xa xả:
Con trâu khỏe mạnh thế mà nỡ giật ngửa ra ở rìa đê mổ thịt. Thằng Minh gộc pha thịt, thằng Long chọc tiết. Phen này ông cho cả lũ đi tù, chúng nó định làm loạn à?”.
Ghê gớm chưa? Người dân ăn có miếng thịt trâu của chính mình mà ông Chủ tịch xã đã dọa “cho cả lũ đi tù” thì hóa ra ở cái xã hội ưu việt này, con người ta lúc nào cũng sẵn sàng… đi tù. Riêng ông Phó Chủ nhiệm Tam, trót dại vì thương con cái thèm thịt mua về một xâu, ông vừa lo bị Chủ tịch xã dằn vặt, vừa lo “mất uy tín” “hàng trăm cặp mắt chế giễu, căm giận, hàng nghìn lời nói đay nghiến, chì chiết sẽ bao vây lấy anh, tấn công anh và kẻ bị hành hình đã đành không thể sống nổi cũng không chết ngay được…”.
Ôi chao ôi, xã hội gì kỳ quặc, ăn có miếng thịt trâu mua bằng chính đồng tiền của mình mà ông Phó Chủ nhiệm Tam phải điêu đứng thế đến nỗi ông  phải than trời:
”Ôi, tủi nhục quá, cay chua quá và dại dột không biết chừng nào… Đằng nào thì trong ngày hôm nay địa vị của anh cũng sẽ thay đổi. Anh sẽ được nghe những tiếng hò reo gian ác, khoái trá của Đoàn và đồng bọn:”Tưởng gì, hóa ra cũng là một anh đạo đức giả".
Và Tam quay mặt đi khóc nức nở…”.
Muốn khóc gì thì khóc, trót ăn miếng thịt trâu rồi, ông Phó Chủ nhiệm sẽ đưa ra đại hội xã viên xem xét và bị Chủ tịch xã Môn chửi xơi xơi vào mặt:
Anh không xứng đáng, anh phụ lòng tin cậy của tôi, của cả chi bộ. Thằng địch có đâm tôi một nhát dao vào giữa ngực cũng không đau đớn bằng cướp đi của tôi một người bạn. Thế là anh đã chết rồi, phải coi như là anh đã chết rồi. Biết vậy mà không sao cứu được nữa…”.
Ôi chao ôi, từ cổ chí kim, trên khắp mặt địa cầu này, có lẽ chẳng ở đâu chỉ vì bỏ tiền túi ra mua một miếng thịt trâu bỏ miệng mà bị rủa xả nhục nhã, coi như đã chết rồi đến như vậy. Chỉ nguyên cái chuyện “thịt trâu mổ lậu”, Nguyễn Khải đã “vô tình” lột trần tính phi nhân trong quan hệ đồng chí. Bởi vậy không phải “thân yêu nhau chúng ta gọi đồng chí”, mà chính là trong hội nghị sắp sửa sát phạt nhau, hai chữ “đồng chí” mới được dùng để đưa nhau lên thớt.
                        

KỲ 35

 



Phó Chủ nhiệm ăn thịt trâu bị xử nặng thế, tất nhiên vợ chồng Lận, thủ phạm chính giết trâu của mình, tội còn lớn gấp bội. Từ sáng sớm còn nhọ mặt người, ông Chủ tịch xã Môn đã cho đánh trống họp ban quản trị và kế toán trưởng hợp tác xử vụ giết trâu. Vợ chồng Lận được kêu đến. Người đàn bà khốn khổ không dám đứng chỉ “lom khom nhìn ngó xung quanh rồi lại thụp xuống ngay” rồi  thưa gửi:
“Thưa với chư ông trong nhà túng bấn quá nên tôi cũng có chót bán đi lấy ít tiền để trang trải công nợ ạ…”.
“Bà bán trâu, tậu nghé, mưu mẹo lắm…”.
Và cuộc hỏi cung diễn ra với những câu hỏi như quan tòa với tội phạm: "Bán cho nhà ai? Ở đâu? Trong việc bán trâu này ông bà có bàn tính với nhau không…?”.
Hỏi xong vợ rồi hỏi đến chồng. Anh chồng bí quá đổ thừa cho vợ tự ý bán trâu làm bà vợ ông Chủ tịch xã phải nói chen:
“Thế ra quyền bà ấy lại to hơn cả ông à?”.
Vậy là vợ ông Chủ tịch xã không chỉ “dắt mũi” chồng khi ở nhà mà còn ra cả “công đường” phụ với chồng xử tội người khác. Sau cùng ông Chủ tịch xã luận tội “bán trâu”:
“Việc bán con trâu nhà ông, dù có vợ bán hay chồng bán cũng mặc, dứt khoát là phạm pháp. Tư pháp sẽ có trách nhiệm xét xử việc này…”.
Và chẳng cần chờ “tư pháp” xét xử, ông Chủ tịch xã quyết định luôn:
“Còn con nghé hiện nay ông mới mua ủy ban sẽ quản lý…”.
Gọi là “quản lý” nhưng thực chất Ủy ban cướp trắng tài sản của dân đen khiến nó phẫn uất:
“Cứ việc. Chính quyền có tịch thu tôi cũng không dám kêu ca gì. Xưa nay bị cướp bóc đã nhiều chứ chẳng phải mới có lần này… Đ… mẹ cả đứa mua lẫn đứa bán đều là dại cả. Xin chào chư ông thôi ạ. Thế bao giờ ông Chủ tịch cho người sang dắt nghé tôi đây?”.
Một phiên “xử án” tịch thu tài sản của đương sự còn tệ hại hơn lý trưởng, chánh tổng ngày xưa trong đó “phu nhân của quan lớn” cũng nhảy bổ vào kết án thằng dân.
Vậy là trong một xã mọi quyền sinh sát, mọi việc lớn nhỏ từ miếng ăn cho tới việc làm, mọi số phận người dân đều nằm trong tay duy nhất một người: ông Chủ tịch xã. Để thực thi cái trách nhiệm nặng nề ảnh hưởng trực tiếp tới số phận cả mấy ngàn con người, ông Chủ Chủ tịch xã Môn là người thế nào?
Thật đáng lo ngại, ngoài lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, nắm thật vững và thi hành mù quáng mọi chủ trương đường lối Nhà nước, ông Chủ tịch xã mù tịt kiến thức phổ thông khiến có lúc ông hỏi thật ẩm ương khi nghe nói về tên lửa Liên Xô phóng lên trời:
Tôi còn thắc mắc một điều là ví như cái tên lửa nếu nó bay được cao nữa thì có chạm phải nền trời không?”.
Khi được giải thích cặn kẽ, ông vẫn còn chưa thông:
Vậy cái tên lửa nó bay mãi như thế mà không vướng núi ư? Đến một đoạn nào đó tất cũng phải rơi xuống chứ?”.
Nghe giải thích: "trái đất mình ở nó tròn như quả cam, quả bưởi lơ lơ lửng lửng giữa không gian chứ có bám víu vào đâu đâu. Còn tên lửa là bay vòng bên ngoài kia…”.
Ông Chủ tịch xã vẫn chưa hiểu:
“Rắc rối nhỉ. Mỗi tuổi mỗi nghe thêm nhiều chuyện lạ. Kể cũng hay…”.
Hóa ra trình độ hiểu biết của ông Chủ tịch xã vẫn thuộc vào thời… ông Copernic phải lên giàn hỏa vì dám nói “trái đất nó quay”. Trình độ như vậy các ông cán bộ cách mạng có thể quản lý và bóp nghẹt mọi hoạt động tâm linh của nhà thờ, có thể cướp ruộng, cướp nghé của người dân vô tội, có thể đưa ra Tòa kết án kẻ làm thịt trâu của chính mình. Những việc đó họ làm thật xuất sắc vì chẳng cần dùng gì tới kiến thức phổ thông của nhân loại.
Tuy nhiên họ không thể làm cho cánh đồng tăng năng suất lúa, đàn gia súc tăng trưởng nhanh bởi lẽ họ mù tịt về khoa học kỹ thuật tiên tiến và hiện đại. Trong lúc thế giới đang phát triển như vũ bão về phát minh, phát kiến, về cuộc cách mạng xanh, thay vì mở toang cửa đón nhận mọi thành tựu nhằm nâng cao phúc lợi, cải thiện đời sống người dân, họ lại đóng cửa xua mọi người vào cuộc tranh giành, đấu tranh giai cấp gây nên những tổn hại không sao kể xiết. Sau khi giành chính quyền, họ giỏi chia chác “cái bánh” trong đó người cầm cày nhận phần tối thiểu khỏi chết đói chứ tuyệt nhiên họ không đủ đầu óc và nhiệt tình động viên tất cả mọi người làm cho miếng bánh ấy lớn thêm để phần bánh của mỗi người được to ra. Đó quả thực là thông điệp toát ra một cách khách quan, ngoài ý muốn của nhà văn Nguyễn Khải qua tiểu thuyết Xung đột.
Với bà con xã viên, chính quyền còn thắt buộc thế, vậy đối với “ nhà thờ”, tất nhiên phải coi như… kẻ thù dân tộc, luôn âm mưu phá hoại chính quyền. Ông Chủ tịch xã Môn, coi Cha xứ Thuyết là “tinh khôn quá kẻ cướp”  và huỵch toẹt:
“Tôi biết thừa mấy tay linh mục chỉ hay mè nheo với cấp tỉnh vì các ông ấy phải giữ đúng chính sách mà, còn ở xã ấy à, một phép…”.
Ông Chủ tịch xã vô tình đã lật tẩy cái “tự do tín ngưỡng “ của Nhà nước – chỉ cần tỏ vẻ “tôn trọng” tôn giáo ở cấp tỉnh thôi, còn dưới cấp xã tha hồ chèn ép. Chính vì thế gã mới khoe khoang:
“Ngay như tay Vinh tự xưng là thánh Tô-ma thời nay vậy mà mỗi lần gọi ra ủy ban mặt cắt không còn hột máu…”.
Chính phủ trung ương chỉ đạo chính quyền cấp xã thế nào mà các linh mục mỗi lần bị gọi ra Ủy ban đều phải run sợ thế? Một tay chót bét trong bộ máy chính quyền cũng có thể mắng sa sả vào mặt các nhà tu hành về chuyện chủng viện đào tạo thầy dòng:
Tôi có lần đã nói thẳng với ông Thuyết ở đây: các ông đừng có lập lờ, chỉ bịp được các con chiên ngu dốt chứ cán bộ chúng tôi thì nhìn thấy tận cuống ruột các ông, chủng viện gì, trường đào tạo gián điệp đấy thôi…”.
Tất nhiên cấp trên phải gỉ tai thế nào gã cán bộ cấp xã mới dám “công xúc tu sĩ” ngay giữa công đường:
Trường gián điệp (tức chủng viện) ngay giữa miền Bắc này, chẳng những không ai dám đả động đến nó mà còn phải cấp cả gạo ăn, than đốt, giấy bút học, thỉnh thoảng lại còn văn công, xi nê để giải trí nữa…”.
Nếu "chủng viện” đúng vậy thì chắc chắn đó là “trường quốc doanh đào tạo cán bộ tôn giáo vận” đội lốt chủng viện. Chắc ông Chủ tịch xã “ngây thơ” không hiểu được điều cơ mật đó, nên cứ ra rả mắng mỏ học sinh chủng viện:
Mấy đứa người xã này đi học ở Bái tôi biết, khi đi chúng nó nết na, hiền lành thế, học được một hai năm về thăm nhà mặt mũi đã nhâng nháo như kẻ cướp, ăn nói hỗn xược, toàn xui gia đình phá chính sách, có đứa mang cả tài liệu chống cộng về phân phát trong xóm…”.
Sự thực trong lòng xã hội miền Bắc những năm 1960 không khí khủng bố khét lẹt, làm gì có chuyện mấy đứa học sinh dám mang “tài liệu chống cộng về phân phát trong xóm”. Trong thời kỳ này, một anh cán bộ Đài Tiếng nói Việt Nam, nhà thơ Tuân Nguyễn chỉ đùa hai câu thơ vui:
“Tiến lên ta quyết tiến lên
Tiến lên ta gọi cấp trên bằng… thằng”.
Chỉ mới “đùa chút ” thôi đã phải đi cải tạo, huống hồ “phân phát tài liệu chống cộng trong xóm” thì tội đáng… lăng trì, xử trảm, ai dám to gan thế? Xem vậy đủ biết Chủ tịch xã Môn vu cáo nhà thờ trắng trợn đến đâu. Gã còn quy kết:
“Mình là hàng cha chú chúng nó, có đến chơi thì giương mắt đứng nhìn, hằn thù cán bộ còn hơn cả quân Pháp ngày xưa. Mới mười bốn mười lăm tuổi đã thành phản động con cả, nữa là để chúng nó dạy dỗ nhau năm mười năm nữa…”.
Một ông cán bộ mặt trận tỉnh tên Mẫn được phái về tăng cường cho xã lẽ ra phải uốn nắn Chủ tịch xã thái độ ứng phó với nhà thờ sao cho kín đáo uyển chuyển hơn, đằng này lại phụ họa, hung hăng không kém trong thù ghét nhà thờ. Ông cán bộ tỉnh nhận xét các linh mục thật coi người bằng nửa con mắt:
Bọn ấy tuy chẳng tài ba gì, trước sau vẫn một ngón võ nấp sau lưng con chiên thôi, nhưng đừng tưởng họ ít thủ đoạn đâu nhé. Đức Giám quản vừa cho cánh mình một vố khá ngọt đây…”.
Tưởng “vố” gì ghê gớm, hóa ra chỉ là lời đùa bỡn của linh mục Tuệ với cán bộ Mẫn:
Tôi sinh đúng vào năm cách mạng tháng Mười, đến cách mạng tháng Tám thì được truyền chức linh mục, hòa bình lập lại làm Giám quản địa phận. Đời tôi thế là dính liền với cách mạng đấy nhé…”.
Cán bộ rủa xả, nhục mạ linh mục thì không sao, ngược lại linh mục chỉ nói giỡn vài câu với cán bộ đã bị coi là… khiêu khích cách mạng.
Thực ra cái số cán bộ thù ghét nhà thờ “ghi xương khắc cốt” kiểu như Chủ tịch xã Môn với cán bộ Mặt trận Mẫn là không nhiều; bởi lẽ chính họ cũng từ giáo dân mà ra, vợ con, bố mẹ họ vẫn là những con chiên ngoan đạo, hà cớ gì họ phải “báng bổ” nhà thờ đến vậy? Trong khi đó họ vẫn được Đảng và Nhà nước nhắc nhở về “tôn  giáo vận”, vẫn được dặn dò cần phải có sách lược mềm dẻo, linh hoạt “tỏ rõ” chính sách tự do tín ngưỡng của Đảng chính phủ kia mà?
Ông nhà văn Nguyễn Khải “vẽ rắn thêm chân”,phóng đại lòng “căm ghét nhà thờ” trong giới cán bộ xã và tỉnh liệu có phải để chính ông bày tỏ sự dứt khoát từ bỏ gốc gác thầy dòng của ông, từ bỏ theo kiểu chặt cầu và không khoan  nhượng để được Đảng tin cậy. Quả thực có lớn tiếng mượn mồm người khác mạt sát nhà thờ, ông nhà văn mới tỏ rõ được lập trường giác ngộ giai cấp, giác ngộ Đảng quyết liệt, từ trong tim, trong máu chứ không phải chỉ là ở đầu môi chót lưỡi.
Lập trường này càng củng cố khi sau 1975 Nguyễn Khải gặp lại gia đình đã di cư vào Nam, ông vẫn quyết liệt lên án họ trong “Gặp gỡ cuối năm” làm yên lòng Đảng. Bởi vậy trong thời kỳ văn nghệ sĩ miền Bắc bị khủng bố gắt gao nhất, Nguyễn Khải vẫn luôn luôn là đứa con cưng được Đảng bao bọc và ấp ủ trong vòng tay của “văn nghệ quân đội”.  
Công lớn của Nguyên Khải trong “Xung đột” không chỉ hạ uy tín nhà thờ mà còn tô vẽ hợp tác xã thành bộ mặt thật tốt đẹp chứng minh chủ trương tập thể hóa nông nghiệp của Đảng là cực kỳ ưu việt và sáng suốt. Cái sự “tô vẽ” ấy đôi khi quá đà khi ông “bịa” lời một anh nông dân tên Điệp bênh che cho việc Nhà nước cướp ruộng, cướp trâu của  nông dân:
Sống ở xã này mỗi năm một thấy khác. Có hai bác tôi xin nói thật, nhân dân ở đây họ có tin ở chính phủ lắm mới trao ruộng, trao trâu cho hợp tác xã, cơ nghiệp hàng mấy đời người chứ đâu phải chuyện bỡn…”.
Rồi cũng chính anh nông dân này “ca ngợi” Nhà nước đã ‘cướp thóc của dân”:
Cứ lấy việc thu thóc nghĩa thương vụ mùa năm ngoái mà suy thì ai cũng phải phục cái sáng suốt của huyện của tỉnh. Ngày ấy không kiên quyết thu thì bây giờ lấy đâu ra thóc cứu đói…”.
Hóa ra “thuế nghĩa thương” là thuế thóc dự trữ để khi nào có thiên tai đói kém thì Nhà nước khỏi phải lấy quỹ thóc quốc gia ra cứu. Thật là một sắc thuế độc nhất vô nhị trên thế giới. Mượn mồm anh nông dân, ông nhà văn tiếp tục ‘tô vẽ”:
Năm Ất Dậu ngoài chợ Hỗ thóc bán có năm đồng một thùng mà người chết đầy đường, năm nay thóc bán tám chín đồng, mười đồng cũng là , vậy mà không nhà nào đến nỗi phải nhịn cơm hai bữa…”.
So sánh giá thóc năm 1945 theo tiền Đông Dương với giá thóc năm 1960 ông nhà văn quên bẵng mất là lúc này cách mạng đã có Ngân hàng Nhà nước làm gì ra tiền Đông Dương như hồi Pháp thuộc? Và rồi ông xuýt xoa:
“(thóc cao vậy mà…) vẫn họp hành, vẫn sản xuất, con gà con vịt, buồng chối lá rau tịnh không một ai lấm lét, tơ hào. Thời Nghiêu Thuấn cũng đến vậy chứ gì?”.
Ôi trời ôi, cái thời "mỗi người làm việc bằng hai, để cho chủ nhiệm mua đài mua xe” mà ông nhà văn coi là ‘thời Nghiêu Thuấn” thì nghề “bốc thơm”, “bồi bút” phải lấy ông này…tiên sư...

                          (còn tiếp)
---------------------------
* nguồn: blog nhattuan


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét